KINH VĂN
Phẩm Tuổi thọ của Như Lai, thứ mười sáu
Giải thích về tuổi thọ vô lượng
Trước tiên hãy nêu ra những cách giải thích khác nhau.
Ngài Tăng Duệ[1] trong lời tựa nói rằng: “Tuổi thọ dù vô lượng kiếp cũng chưa đủ nêu rõ sự trường cửu của Như Lai; phân thân dù vô số cũng không đủ làm khác đi bản thể của Như Lai. Cho nên, nói thọ lượng là để xác định tuổi thọ Như Lai không thể tính đếm, nêu phân thân là để làm rõ bản thể Như Lai không có khác biệt. Nói Phổ Hiền để hiển bày việc Như Lai vốn không [chỉ mới vừa] thành đạo [ở Già-da],[2] hiện Đa Bảo là làm sáng tỏ việc Như Lai vốn không nhập diệt.”
Ngài Đạo Lãng ở Hà Tây cho rằng: “Làm rõ pháp thân chân thật với hóa thân không khác, nên [thân Phật] còn hay mất đều cùng một lý. Phật Đa Bảo hiện ra là nêu rõ pháp thân thường còn; nêu thọ lượng là chỉ rõ tuổi thọ của Như Lai đồng như thái hư, không hạn lượng.”
Đạo Tràng Quán[3] nói rằng: “Hội ba về một, đó là khởi đầu của thừa; dứt ảnh lắng thần, đó là kết thúc của thừa. Dứt ảnh là ngưng bặt hình tích; lắng thần thì sáng tỏ bản nguyên. Cho nên, hình tích thì vô thường mà bản nguyên là thường.”
Lại có người chú giải rằng: “Sống chết không thể đếm bằng số nên gọi là thọ; dài ngắn vượt ngoài giới hạn nên gọi là lượng. Pháp thân không thuộc về hình dạng tuổi tác, bậc đại sĩ còn phải tu tập quán chiếu đến cùng cực [mới biết], không thể cho việc ngồi nơi Bồ-đề Đạo tràng[4] là mới thành Phật, trăm tuổi là già nua cần sự nuôi nấng.”
Ngài Trúc Đạo Sinh nói: “Sắc thân Phật do ứng hiện mà có, nên tuy có nhưng không phải hình tướng thật. Hình tướng đã không thật thì lẽ nào lại có tuổi thọ? Cho nên muôn hình tướng Phật cùng về một nơi, Phật xưa Phật nay cùng là một Phật. Phật xưa cũng như nay, nay cũng như xưa, không lúc nào không hiện hữu, không nơi nào không tồn tại. Nếu như có lúc không hiện hữu, có nơi không tồn tại, thì Phật cũng giống như chúng sanh. Nhưng Phật không phải vậy, cho nên nói tuổi thọ [của Phật] cùng cực tức là nói thành đạo nơi Bồ-đề đạo tràng. Thành đạo nơi đạo tràng lại không phải [mới vừa] thành đạo. Thành đạo đã không phải là thành đạo, lẽ nào lại còn có việc tuổi thọ lâu dài? [Cho nên ý niệm về tuổi thọ] dài ngắn đều không có, [mà chúng sanh đều thấy tuổi thọ] dài ngắn đó là thường còn.”
Các bậc thầy lớn trước đây như đã dẫn, phần nhiều đều lấy chỗ tuổi thọ không giới hạn để nêu nghĩa thường.
Những vị thầy gần đây thì cho rằng [kinh nói] tuổi thọ [Như Lai] cũng là hạn lượng, trước nói nhiều hơn cát sông Hằng, sau nói còn gấp nhiều lần số đó, rốt lại hạn lượng cùng cực vẫn là giới hạn, nên là vô thường.
Lại có người ngờ vực cho rằng, phẩm này nêu tuổi thọ [Như Lai] có hạn lượng lâu dài, mà hạn lượng đã là vô thường, sao có thể giải thích thành nghĩa thường?
Nay sẽ giải đáp những điều nói trên.
Tên phẩm này nói thẳng là “thọ lượng”, không nói là “tuổi thọ có hạn lượng”, không nói là “tuổi thọ không hạn lượng”. Nay người này giải thích là thường, người kia nói là vô thường, có chỗ nào là sai? Như trai cò kiềm chế nhau, đôi bên đều làm khó cho nhau.[5]
Nay tôi nhân nơi chỗ còn chưa rõ của hai bên mà nêu ra cho trọn đủ bốn cách giải thích:
Thứ nhất, [tuổi thọ] thật có hạn lượng nhưng nói là vô lượng, như trường hợp kinh A-di-đà.
Thứ hai, [tuổi thọ] thật không hạn lượng nhưng nói là có hạn lượng, như trong phẩm này, cũng như trong kinh Kim Quang Minh.
Thứ ba, [tuổi thọ] thật vô lượng, nói là vô lượng, như kinh Niết-bàn nói: “Chỉ Phật với Phật tuổi thọ mới là vô lượng.”
Thứ tư, [tuổi thọ] thật có hạn lượng, nói là có hạn lượng, như Phật tám mươi tuổi tuyên bố nhập Niết-bàn.
Kinh văn phẩm này có đủ bốn nghĩa như trên, lẽ nào chỉ có một nghĩa đúng còn ba nghĩa là sai hay sao?
Hỏi: Nếu phẩm Thọ lượng này nêu nghĩa thường thì so với kinh Niết-bàn có gì khác nhau?
Đáp: Nay xin hỏi ngược lại, lý Nhất thừa trong kinh Pháp hoa với lý nhất thừa trong kinh Thắng Man lại có gì khác nhau? Đại lược là như thế.
Còn nếu phân biệt để giải đáp thì Pháp hoa là nói lược nghĩa thường, Niết-bàn là nói rộng nghĩa thường. Thắng Man là dùng Nhất thừa để làm rõ Nhất thừa; Pháp hoa là hợp ba thừa để nêu Nhất thừa. Đại lược là như vậy.
Hỏi: Phật thành đạo gần đây là phương tiện; thành đạo từ lâu xa là chân thật. Như vậy thì kinh Hoa nghiêm nói tịch diệt nơi đạo tràng, kinh Đại Bát Niết-bàn nói rút ngắn chín kiếp [mà thành Phật] trước,[6] đều là nói thành đạo theo phương tiện. Nếu như thế, Pháp hoa đã khai mở nói việc thành đạo từ lâu xa, đến phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh sao đổi lại thành đạo gần đây? Do vậy nên biết là Pháp hoa đã trở lại nói phương tiện.
Nếu thế, đã nói hội ba thừa về một thừa rồi, lẽ ra không có hội ba thừa về một thừa nữa; nếu thế, việc bỏ ba thừa để hiển bày một thừa thì chư Phật đều như nhau; việc bỏ [phương tiện thành đạo] gần để hiển bày [thành đạo chân thật từ] lâu xa thì chư Phật cũng đều giống nhau.
Nếu thế, tất cả chư Phật cũng đều như thế, không riêng gì Phật Thích-ca [có tuổi thọ vô lượng]. Nếu chỉ riêng đức Thích-ca [có tuổi thọ vô lượng] thì những nghĩa trước đây đều không đúng.
Đáp: Kệ tụng trong kinh nói “Là phương tiện của ta, chư Phật cũng như vậy.”[7] Lại nữa, chư Bồ Tát được nghe về tuổi thọ của Như Lai rồi thì phát nguyện. “Nguyện chúng con đời sau… … cũng ngồi nơi Đạo trường, nói tuổi thọ lâu dài.”[8] Như vậy tức là chư Phật đều như nhau. Lại cũng không nói lệch về một bên là gần, một bên là xa. Cho nên biết rằng, mượn nghĩa không khởi đầu, không kết thúc, không gần, không xa để hiển bày pháp thân thường trụ; nói có khởi đầu, có kết thúc, có gần, có xa là luận giải tương ứng với việc thị hiện hình tích. Dùng nghĩa này để nhận hiểu tất cả các kinh thì chỗ đối duyên tuy có khác nhưng rốt cùng không có khác biệt. Đã thấu triệt các kinh thì không còn bị [luận thuyết của] các vị thầy dẫn dắt.[9]
Hỏi: Theo nghĩa suy ra thì “thường” có thể là như vậy, nhưng dẫn chứng kinh văn thì phải căn cứ vào đâu?
Đáp: Người sáng suốt thì xem trọng ở lý; kẻ mê muội chỉ bám chấp nơi câu chữ. Chỉ cần tìm cầu cách giải thích tương hợp với tông chỉ, đó là ý nghĩa chính của giáo pháp; nếu cứ bám chấp hình thức vụn vặt[10] mà truy hỏi phương tiện[11] thì nào có ích gì?
Lại nữa, giáo pháp vốn tùy theo duyên, duyên khác nhau thì thuyết giảng khác nhau. Hoặc tùy theo sự vui mừng, tùy theo chỗ nghi ngờ, tùy theo pháp đối trị, tùy theo sự tỏ ngộ. Giác ngộ tức là đã đến nơi rồi, còn loanh quanh trên đường làm gì? Cho nên nói “Niết-bàn là kho pháp bảo chân thật, chúng sanh tùy mọi cửa mà vào”, chính là ý nghĩa này vậy.
Lại nữa, kinh văn có những chỗ dài ngắn khác nhau. Trong kinh Niết-bàn, khi lấy sự thường trụ trong tương lai làm tông chỉ thì kinh văn dài; không lấy việc đã thành Phật từ lâu trong quá khứ làm tông chỉ thì kinh văn ngắn. Nếu theo chỗ dài, bỏ chỗ ngắn thì ắt là ma thuyết, chẳng phải Phật thuyết. Kinh Pháp hoa này, khi lấy việc đã thành Phật từ lâu trong quá khứ làm tông chỉ, số kiếp nhiều như số bụi trong các thế giới[12] thì kinh văn phải dài; khi nói sự thường trụ trong tương lai thì kinh văn lại ngắn; nếu theo chỗ dài, bỏ chỗ ngắn thì “đầu vỡ thành bảy phần, như chồi cây a-lê”.[13] Cũng như chiếu lệnh của vua ban ra, dù viết dài hay viết ngắn đều không thể vi phạm; nếu vi phạm thì phải chịu tội.
Phẩm Phương tiện nói rằng: “Tướng thế gian thường trụ, nơi đạo tràng rõ biết, Đạo sư thuyết phương tiện.” Câu kinh văn này là nói trong tương lai thường trụ chẳng diệt. Lại nói rằng: “Ta thường trụ cõi này.” Lại nói: “Phật thường ở núi Thứu, và những nơi chốn khác.”
Kinh Phổ Hiền quán nói rằng: “Thường ba-la-mật là nơi [Phật] thành đạo; Ngã ba-la-mật là nơi Phật an lập.”[14] Những câu kinh nêu nghĩa thường như thế này cũng không phải ít. Lại ngay trong kinh này, rất nhiều nơi nêu nghĩa pháp thân. Pháp thân lẽ nào không phải là thường?
Hỏi: Đã nêu pháp thân, lẽ ra nên bàn về ba phẩm đức [của Phật]?[15]
Đáp: Hai trí quyền thật chẳng phải là Bát-nhã đó sao? Thị hiện trong ba đời chẳng phải là giải thoát đó sao? Thật tướng từ nguồn cội ban sơ chính là pháp thân. Ba phẩm đức đã được nêu trong kinh văn như vậy.
Giải thích tên phẩm
Như Lai là danh hiệu chung của ba đời mười phương chư Phật, Nhị Phật, Tam Phật,[16] Bản Phật, Tích Phật.[17]
Thọ lượng (tuổi thọ) là nói việc nhận hiểu suy lường; nhận hiểu suy lường về công đức của Nhị Phật, Tam Phật, Bản Phật, Tích Phật trong ba đời ở khắp mười phương. Nay trong kinh này chính là nhận hiểu suy lường về công đức của Tam Phật bản nguyên, cho nên gọi là phẩm Tuổi thọ của Như Lai.
Như Lai có rất nhiều nghĩa, nay hãy tạm nói rõ về Nhị Như Lai và Tam Như Lai, những nghĩa khác dựa theo đó có thể hiểu được.
Trước hết giải thích về Nhị Như Lai. Luận Thành thật nói: “Như Lai, tức là nương theo đạo như thật đạt đến thành Chánh giác, nên gọi là Như Lai.”[18] Thừa là trí của pháp như như; thật là cảnh của pháp như như; tu tập đạo là nhân; thành chánh giác là quả.
Nếu chỉ luận riêng về nghĩa nương theo, [tức là trí], thì “như như” không có chỗ rõ biết (sở tri); nếu chỉ nêu riêng về nghĩa “thật”, [tức là cảnh], thì “như như” không có năng lực rõ biết (năng tri); nhưng cảnh và trí hòa hợp thì liền có nhân quả. Soi chiếu nơi cảnh chưa cùng tận gọi là nhân; rõ đến tận nguồn là quả. Thấu hiểu đạo thì thành tựu nghĩa, đó chính là “nương theo đạo như thật, đạt đến thành Chánh giác”. Đây là nghĩa chân thân, tức Pháp thân Như Lai.
Dùng trí như thật nương theo đạo như thật, đản sanh trong ba cõi, thị hiện thành Chánh giác, đó tức là Ứng thân Như Lai.
Về nghĩa Tam Như Lai, luận Đại trí độ nói: “Giảng giải như tướng pháp; thuyết dạy như tướng pháp, nên gọi là Như Lai.” Như là cảnh của pháp như như; chẳng phải nhân, chẳng phải quả. Dù có Phật hay không có Phật, tánh tướng vẫn thường như vậy. Biến hiện khắp nơi mà chẳng có gì khác là “như”; không dao động mà đến là “lai”. Đây là Pháp thân Như Lai.
Về trí của pháp như như, đó là nương theo đạo chân thật như như, đạt đến thành Diệu giác. Trí xứng như lý, từ nơi lý gọi là “như”; từ nơi trí gọi là “lai”, đây là Báo thân Như Lai. Cho nên luận nói: “Giảng giải đúng như tướng pháp… nên gọi là Như Lai.”
Dùng trí như như hợp với cảnh như như nên có thể ở khắp mọi nơi thị hiện thành Chánh giác. Ví như thủy ngân pha trộn với vàng ròng có thể tô phết thành cảnh sắc hình tượng; công đức cùng với Pháp thân có thể ứng hiện ở khắp mọi nơi. Đủ tám tướng thành đạo,[19] chuyển diệu pháp luân, đây là Ứng thân Như Lai. Cho nên luận nói: “Thuyết dạy đúng như tướng pháp, nên gọi là Như Lai.”
Pháp thân Như Lai gọi là Tỳ-lô-giá-na,[20] Hán dịch là Biến nhất thiết xứ (biến hiện khắp mọi nơi). Báo thân Như Lai gọi là Lô-xá-na, Hán dịch là Tịnh mãn (tròn đầy thanh tịnh). Ứng thân Như Lai gọi là Thích-ca-văn, Hán dịch là Độ ốc tiêu.[21] Đây chính là Tam Như Lai, không thể chấp giữ riêng lẻ chỉ một trong ba danh hiệu này.
Kinh Đại bát Niết-bàn nói rằng, pháp thân không phải [Niết-bàn], Bát-nhã cũng không phải [Niết-bàn], giải thoát cũng không phải [Niết-bàn]. Cần đầy đủ ba pháp mới gọi là tạng sâu kín, là Đại Niết-bàn; không thể là đồng nhất hay khác biệt, tuần tự hay đồng thời, tổng quát hay tách rời. Quán xét trọn vẹn đầy đủ ba pháp như vậy, tạm gọi tên là Như Lai.[22]
Kinh Phạm Võng kết lại, giáo nghĩa Hoa Nghiêm hình thành; lấy đài hoa làm gốc, cánh hoa làm ngọn; chỉ riêng vì một duyên mà thuyết giảng như vậy, nhưng gốc và ngọn vốn không thể tách lìa.
Kinh Tượng pháp quyết nghi kết lại, kinh Niết-bàn hình thành. Kinh văn nói: “Hoặc thấy đức Thích-ca là Phật Tỳ-lô-giá-na, hoặc thấy là Phật Lô-xá-na, đều do duyên trước mà nhìn thấy khác nhau, chẳng phải Phật có ba thân khác biệt.”
Kinh Phổ Hiền quán kết lại, kinh Pháp hoa hình thành. Kinh văn nói: “Thích-ca Mâu-ni gọi là Tỳ-lô-giá-na, chỉ là tên gọi khác, chẳng phải tánh thể khác biệt.”
Tổng kết ý nghĩa trong các kinh, nên biết rõ ràng rằng Tam Phật chẳng phải đồng nhất, chẳng phải khác biệt.
Hỏi: Phẩm này không nêu tên gọi Tam Phật như trên, vì sao đưa ra giải thích như vậy?
Đáp: Tuy không nêu tên nhưng ý nghĩa [Tam Phật] có đủ. Kinh văn nói “…không phải như vậy cũng không phải khác biệt; không giống như [chúng sanh trong] ba cõi nhìn thấy ba cõi…” Chính là phá bỏ nghĩa “như” thiên lệch mà hiển bày nghĩa “như” tròn đầy. Đây là nghĩa Pháp thân Như Lai.
Kinh lại nói rằng: “Như Lai thấy biết đúng thật tướng trạng của ba cõi.” Đây là trí như như xứng hợp với cảnh như như, là tri kiến Nhất thiết chủng trí, tức là Phật nhãn. Đây là nghĩa Báo thân Như Lai.
Kinh lại nói rằng: “Hoặc thị hiện thân mình, hoặc thị hiện thân Phật khác; hoặc thị hiện việc của mình, hoặc thị hiện việc của Phật khác.”[23] Đây là nghĩa Ứng thân Như Lai.
Nếu chỉ nói tánh đức của Tam Như Lai tức là nêu nghĩa đồng thời; nếu chỉ nói tu đức của Tam Như Lai tức là nêu nghĩa tuần tự.[24] Nếu kể trước tiên là Pháp thân, kế đến là Báo thân và sau cùng là Ứng thân thì cũng là tuần tự. Nay kinh này nói nghĩa Tam Như Lai tròn đầy trọn đủ, chẳng phải đồng thời, chẳng phải tuần tự; nếu chỉ lược nói nghĩa trước sau hay đồng thời thì không phải nghĩa trong riêng kinh này, huống chi là nghĩa Như Lai trong cả Tạng giáo và Thông giáo.
Lại nữa, trước thời kỳ thuyết kinh Pháp hoa cũng đã có nói về Như Lai theo nghĩa tròn đầy trọn đủ, cũng đồng như trong phần thuyết giảng về hình tích. Riêng việc nêu rõ hình tích để hiển lộ bản nguyên của Tam Như Lai thì kinh Pháp hoa này khác hẳn với các kinh khác.
Luận nói rằng: “Phật thị hiện thành Đại Bồ-đề Vô thượng là thị hiện ba loại Bồ-đề. Thứ nhất là Ứng hóa thân Bồ-đề, tùy chỗ ứng hiện tức là thị hiện; như kinh văn nói ‘ra khỏi cung điện của họ Thích’. Thứ hai là Báo thân Phật Bồ-đề, tu hành Thập địa trọn đủ, đạt được Niết-bàn thường trụ, như kinh văn nói: ‘Ta thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp.’ Thứ ba là Pháp thân Phật Bồ-đề, là nói tánh của tạng Như Lai thanh tịnh, Niết-bàn không biến đổi. Như kinh văn nói: ‘Như Lai thấy biết đúng thật tướng trạng của ba cõi.’”
Kinh văn nêu đầy đủ ý nghĩa, luận đưa ra tên gọi, nếu không giải thích như trên làm sao tương hợp với kinh luận?
Tiếp đến giải thích về thọ lượng.
Thọ (壽) [là tuổi thọ,] hàm nghĩa thọ nhận (受). Chân như không ngăn cách với các pháp nên gọi là thọ nhận, [là nghĩa Pháp thân]. Lại nữa, cảnh và trí tương ưng nên gọi là thọ nhận, [là nghĩa Báo thân]. Lại nữa, một lần thọ báo trăm năm không đứt đoạn nên gọi là thọ nhận, [là nghĩa Ứng thân].
Lượng (量) là hàm nghĩa nhận hiểu suy lường. Chữ lượng dùng chung nghĩa [cả ba thân Phật], không riêng với thân nào. Nhận hiểu suy lường về Pháp thân Như Lai thì dùng lẽ như như là thọ mạng; Báo thân Như Lai thì dùng trí tuệ làm thọ mạng; Ứng thân Như Lai thì thọ mạng đồng theo các duyên.
Nhận hiểu suy lường thọ mạng [Như Lai có ba trường hợp,] hoặc có hạn lượng, hoặc không hạn lượng, hoặc không phải hạn lượng cũng không phải không hạn lượng.
Pháp thân Như Lai là thọ mạng theo lý như như; dù có Phật hay không có Phật, tánh tướng vẫn thường như vậy; không bàn đến sự tương ưng, cũng không tương tục, lại cũng không có hạn lượng, không phải không hạn lượng.
Kinh văn nói: “Không phải chân thật cũng không phải hư dối; không phải như vậy cũng không phải khác biệt.”[25] Đó là nhận hiểu suy lường về thọ mạng của pháp thân theo lý như như.
Nhận hiểu suy lường về thọ mạng của Báo thân Như Lai, dùng trí như như khế hợp với cảnh như như. Nương theo cảnh phát sinh trí là báo; trí ngầm hợp cảnh là thọ. Cảnh vốn đã vô lượng vô biên, thường trụ không diệt mất, nên trí cũng giống như vậy; như vật chứa lớn thì nắp đậy cũng lớn.
Kinh văn lại nói: “Trí lực Phật như vậy, ánh tuệ chiếu vô cùng, tuổi thọ vô số kiếp, từ lâu tu tập thành.”[26] Đây là nhận hiểu suy lường về thọ mạng của Báo thân Như Lai, dùng trí tuệ làm thọ mạng.
Nhận hiểu suy lường về thọ mạng của Ứng thân Như Lai, thọ mạng đồng với các duyên; duyên lâu dài thọ mạng cũng lâu dài, duyên ngắn ngủi thọ mạng cũng ngắn ngủi… Đều do ở duyên kia, đối với Như Lai nào có liên hệ gì?
Kinh văn nói rất nhiều lần thị hiện đản sinh, rất nhiều lần thị hiện diệt độ: “Ở mỗi nơi ta đều nói ra danh hiệu khác nhau, tuổi tác khác nhau.” Đây là nhận hiểu suy lường về thọ mạng Ứng thân Phật đồng với các duyên.
Lại nữa Pháp thân Phật thì không phải hạn lượng, cũng không phải không hạn lượng. Báo thân Phật trước khi [ngồi tòa] Kim Cang [thành đạo] là có hạn lượng, sau khi thành đạo là không hạn lượng. Ứng thân Phật tùy theo duyên thì có hạn lượng, ứng dụng không gián đoạn thì không hạn lượng. Xét chung trong việc nhận hiểu suy lường [thọ mạng Như Lai] thì có ba trường hợp thuộc về bậc thánh, một trường hợp thuộc về phàm phu.[27] Nếu nói có hạn lượng hoặc không thường còn thì đều không phải ý nghĩa Phật dạy. Những cách giải thích xưa nay đều là tăng thêm hoặc giảm bớt, cả hai cách ấy đều là hủy báng, vu khống cho Phật, đó chẳng phải ma thì là gì?
Bốn câu nhận hiểu suy lường như vậy là đã rõ nghĩa, nay vì người chưa hiểu nên lại nêu bốn câu với nghĩa thường, vô thường…[28] để phân tích giảng giải rõ hơn. Trước tiên sẽ xét riêng từng trường hợp, sau đó là nói chung.
Xét riêng trường hợp chẳng phải thường chẳng phải vô thường, vượt thoát cả hai là lẽ cùng cực, tức là Pháp thân Phật. Thường tức là Báo thân Phật; báo trí và báo cảnh tương hợp cũng chẳng phải thường chẳng phải vô thường, chỉ lấy chánh trí viên mãn thì chẳng sanh chẳng diệt.
Vượt khỏi tâm Kim Cang [thành đạo] về trước thì lấy thường là Báo thân; cũng thường cũng vô thường là Ứng thân; ứng dụng không dứt cũng là thường; nhiều lần tuyên bố sẽ nhập Niết-bàn cũng là vô thường. Kể từ tâm Kim Cang [thành đạo] trở về trước, trí tuệ công hạnh tăng tiến đều là vô thường, cho đến phàm phu sinh diệt sống chết đều là vô thường.
Ba thân Phật tương ứng với ba trường hợp, hết thảy phàm phu chung một trường hợp.[29] Đây là dựa theo giáo pháp của Biệt giáo mà phân biệt riêng [từng trường hợp]. Còn xét chung theo Viên giáo thì mỗi một Như Lai đều có đủ bốn trường hợp.
Trước hết nêu bốn trường hợp của Pháp thân. Thứ nhất, trường hợp chẳng phải thường chẳng phải vô thường, đây là cùng lúc phá trừ tám điên đảo của phàm phu và bậc thánh. Thứ hai, trường hợp thường là như hư không cho nên thường. Thứ ba, trường hợp vô thường là không có sự điên đảo sinh diệt của phàm phu. Thứ tư, trường hợp cũng thường cũng vô thường, đó là tịch lặng mà đồng thời soi chiếu.
Tiếp theo là bốn trường hợp của Báo thân. Thứ nhất, trường hợp chẳng phải thường chẳng phải vô thường, là vì trí khế hợp với cảnh. Thứ hai, trường hợp thường là vì vượt ra ngoài Nhị thừa. Thứ ba, trường hợp vô thường là vì không có sự điên đảo sinh diệt. Thứ tư, trường hợp cũng thường cũng vô thường, là vì có năng lực đồng thời soi chiếu.
Tiếp theo là bốn trường hợp của Ứng thân. Thứ nhất, trường hợp chẳng phải thường chẳng phải vô thường, là vì chẳng phải quả báo, chẳng phải sinh tử. Thứ hai, trường hợp thường là vì thường ứng hóa tương đồng. Thứ ba, trường hợp vô thường là vì cũng đồng với vô thường. Thứ tư, trường hợp cũng thường cũng vô thường, là vì cả hai tính chất đó cùng tồn tại.
Phàm phu đã xét riêng vào trường hợp vô thường, xét chung lại cũng có đủ bốn trường hợp, nhưng chỉ là theo lý của tánh đức mà thôi, không có cả tên gọi cho bốn trường hợp, huống gì lại có được công dụng vận hành? Có thể theo ý mà hiểu, không đợi phải nói ra.
Một thân Phật tức ba thân Phật, chẳng phải đồng nhất, chẳng phải khác biệt, cho nên biết rằng mỗi một thân Phật đều đầy đủ công đức thọ mạng của ba thân Phật, chỉ tùy duyên chiêu cảm [của chúng sanh] mà thấy có thọ mạng dài ngắn khác nhau. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng: “Hàng phàm phu và Nhị thừa thấy thọ mạng của Phật giống như ngày mùa đông; hàng Bồ Tát thấy giống như ngày mùa xuân; chỉ riêng Phật thấy được thọ mạng của Phật là vô lượng, giống như ngày mùa hạ.”[30]
Sở dĩ như vậy là vì phàm phu thấp kém, nghiệp chướng che lấp mê muội mờ tối; hàng Nhị thừa của Tạng giáo và Thông giáo tuy trừ được bốn trụ địa[31] nhưng chưa thấy được trung đạo; nếu xả bỏ thân phần đoạn sinh tử, thọ thân pháp tánh, cũng chưa phá hết vô minh; ở nơi sinh về kính phụng [chư Phật] cũng chỉ thấy được Thắng ứng thân; nên biết là Nhị thừa chỉ thấy [thọ mạng Như Lai] như thời gian ngày đông.
Nếu các Bồ Tát chưa lên hàng Thập địa, Thập trụ thì chỗ thấy cũng giống như đã nói trước; hoặc phá được vô minh cho đến chứng một phần pháp thân; dễ dãi mà nói thì tạm xem như đã thấy được thọ mạng Báo thân Phật, nhưng nghiêm khắc mà nói thì vẫn chỉ mới thấy được Thắng ứng thân. Chưa thấu tận cội nguồn Báo thân; chưa suốt đến cùng cực tánh pháp, nên chỗ thấy thọ mạng Như Lai vẫn chỉ còn như thời gian ngày xuân.
Chỉ riêng Phật với Phật đã cùng tánh tận nguồn, mới thấy thọ mạng Pháp thân Phật như ngày mùa hạ.
Kinh Đại Bát Niết-bàn nêu ra ba thí dụ để so sánh.
Thứ nhất, trong tất cả những gì thường tồn, hư không là hơn hết; trong tất cả thọ mạng, thọ mạng của Như Lai là hơn hết. Đây là so sánh thọ mạng Pháp thân vô thủy vô chung, tánh tướng ngưng lặng, không đồng với Ứng thân và Báo thân.
Thứ hai là ví như bốn con sông lớn đều chảy về biển lớn. Đây là so sánh như muôn điều lành do Báo thân tu tập đều cảm thành trong biển thọ mạng Phật.
Thứ ba là ví như bốn con sông lớn phát nguyên từ ao A-nậu-đạt. Đây là so sánh với thọ mạng của Ứng thân từ nơi Pháp thân và Báo thân lưu xuất, nên dài ngắn cũng giống như hai thân ấy.
Phẩm này nhận hiểu suy lường cùng giảng rõ chung về ba thân, nếu xét ý riêng thì chính là Báo thân. Vì sao vậy? Vì giải thích như vậy là thuận theo ý nghĩa, phù hợp với kinh văn.
Thuận theo ý nghĩa, vì nói trí tuệ báo thân trên dưới khế hợp nhau; ba thân linh hoạt đầy đủ, cho nên giải thích như trên là thuận theo ý nghĩa.
Phù hợp với kinh văn, vì kinh văn nói “Ta thành Phật đến nay đã hết sức lâu xa”, cho nên có thể trong ba đời làm lợi ích chúng sanh. Chỗ thành tựu ấy là Pháp thân, có khả năng thành tựu tức là Báo thân. Pháp thân và Báo thân tương hợp nên có thể làm lợi ích chúng sanh. Cho nên giải thích như trên là phù hợp với kinh văn.
Từ đó suy ra thì ý chính của phẩm này là luận về công đức của Báo thân Phật.
Lại nữa, đủ mọi công đức của ba thân Phật như vậy, tất cả đều đã thành tựu từ lâu nơi Đạo trường dưới cội Bồ-đề thuở xưa, nên gọi là bản nguyên; còn những công đức được thành tựu trong khoảng thời gian ở giữa cho đến đạo tràng tịch diệt ngày nay gọi là hình tích.
Các kinh khác nói về bản tích đều dạy rằng, Pháp thân và Báo thân thành tựu nơi đạo tràng tịch diệt là bản nguyên; từ đó khởi lên Thắng ứng thân và Liệt ứng thân là hình tích. Kinh Pháp hoa này nói rõ, cả ba thân thành tựu nơi đạo tràng tịch diệt cùng khoảng thời gian ở giữa đều là hình tích; lấy ba thân đã thành tựu nơi đạo tràng thuở xưa gọi là bản nguyên; cho nên so với các kinh đều khác biệt.
Nếu không có bản nguyên thì không dựa vào đâu để khởi xót thương hiển thị hình tích; nếu không có hình tích thì không lấy gì để hiển lộ bản nguyên. Bản tích tuy khác biệt nhưng chỗ không thể nghĩ bàn là đồng nhất. Nếu theo lời thầy Tăng Triệu thì lại có ý nói bản nguyên ở nơi đạo trường tịch diệt [hiện nay].[32]
Lại nữa, bản nguyên ở nơi đạo trường tịch diệt lại có nhiều cách hiểu.
Hoặc lấy Niết-bàn làm bản, từ chân đế[33] khởi Ứng thân làm tích. Tích với bản đều là không, lời nói và suy nghĩ đều dứt sạch, cho nên chỗ không thể nghĩ bàn là đồng nhất.
Hoặc dùng tục đế[34] làm bản, từ tục đế khởi Ứng thân làm tích. Tích với bản đều sâu rộng, hàng Bồ Tát sơ địa[35] không thể suy nghĩ, bàn luận đến tận bờ mé, cho nên nói chỗ không thể nghĩ bàn là đồng nhất.
Hoặc dùng trung đạo làm bản, từ trung đạo khởi Ứng thân là tích. Tích với bản đều dứt sạch ngôn ngữ, đoạn tuyệt tư duy, cho nên nói chỗ không thể nghĩ bàn là đồng nhất.
Lại nữa, ba thân Phật này vốn chẳng phải chia ba, cũng chẳng phải đồng nhất. Chẳng phải chia ba, chẳng phải đồng nhất, lấy đó làm bản; vừa là ba vừa là một, lấy đó làm tích; tất cả đều dứt sạch ngôn ngữ, đoạn tuyệt tư duy, cho nên nói chỗ không thể nghĩ bàn là đồng nhất.
Chưa rõ các bậc thầy khác muốn chỉ vào đâu là chỗ bản tích đồng nhất không thể nghĩ bàn. Nay thâu tóm tất cả thành bốn cách hiểu, tất cả đều là chỗ không thể nghĩ bàn đồng nhất trong nghĩa tích; về xa xưa thì chỉ về bản địa, ba hay bốn cách hiểu trên đều không thể nghĩ bàn, lấy đó làm bản. Từ mỗi cách hiểu về bản mà [chư Phật] có sự thương xót thị hiện hình tích; lại dùng mỗi loại hình tích đó mà hiển lộ bản nguyên. Bản và tích tuy khác nhau nhưng chỗ không thể nghĩ bàn đều đồng nhất.
Cách hiểu bản tích như vậy làm sao không khác biệt với những kinh khác? Làm sao không khác biệt với các vị thầy khác?
Hỏi: Các kinh đều nói về giai vị tu hành, hoặc nhiều hoặc ít. Như kinh Hoa nghiêm nói 41 giai vị, kinh Bồ Tát Anh Lạc nói 52 giai vị; danh xưng ý nghĩa [các giai vị] đều rộng lớn. Kinh này từ đầu đến cuối đều không có việc ấy. Vì sao nói khác biệt?
Đáp: Ví như người đời xây dựng các loại sự nghiệp, thu thập đủ loại trân bảo quý báu, tranh cầu đủ các địa vị, nhưng nếu không tuổi thọ thì hết thảy những tiền bạc địa vị đó biết dùng vào việc gì? Kinh Đại Bát Niết-bàn nói, giống như vị trưởng giả sinh ra và nuôi nấng một đứa con, thầy tướng nói là có tướng chết yểu, không thể nối dõi; cha mẹ biết vậy rồi thì không yêu quý nữa, xem như cỏ rác.[36] Pháp môn cũng vậy, tu hành đủ các nhân, đạt được đủ các quả, hiện đủ loại thần thông, giáo hóa đủ mọi chúng sanh, thuyết dạy đủ các pháp, hóa độ đủ loại người, tất cả đều nằm trong biển thọ mạng Như Lai. Trong biển thọ mạng ấy thì cốt yếu là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.[37] Then chốt cốt yếu như vậy, nếu không phải khác biệt thì là gì?
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Phật nói với các vị Bồ Tát cùng tất cả đại chúng: “Này các thiện nam tử! Các ông nên tin hiểu lời chân thật của Như Lai.”
Rồi ngài lặp lại với đại chúng: “Các ông nên tin hiểu lời chân thật của Như Lai.”
Và lặp lại lần nữa với đại chúng: “Các ông nên tin hiểu lời chân thật của Như Lai.”
Bấy giờ, đại chúng Bồ Tát, đứng đầu là ngài Di-lặc, cùng chắp tay thưa Phật: “Bạch Thế Tôn! Nguyện Phật hãy nói ra, chúng con sẽ tin nhận lời Phật dạy.”
Sau khi bạch Phật ba lần như vậy rồi, các Bồ Tát lại nói thêm lần nữa: “Kính nguyện Phật nói ra, chúng con xin tin nhận lời Phật dạy.”
Khi ấy, đức Thế Tôn thấy các vị Bồ Tát không ngừng thỉnh cầu liên tiếp ba lần, liền dạy rằng:
Phần này giảng rộng ý nghĩa “chỉ bày việc gần, hiển lộ việc xa”. Kinh văn chia làm 2 phần. Trước tiên là răn dạy [đại chúng] phải có lòng tin, tiếp theo là nêu ý chính giải đáp. Đức Phật chỉ dạy, khuyên răn, đại chúng thọ nhận là tin. Kinh văn có 3 lần răn nhắc, 3 lần thỉnh cầu; rồi lặp lại thỉnh cầu, lặp lại răn nhắc. Trong phần Tích môn thì có 3 lần thỉnh cầu, 1 lần răn nhắc; trong phần này có 4 lần thỉnh cầu, 4 lần răn nhắc. Như vậy tổng cộng trước sau là 5 lần răn nhắc, 7 lần thỉnh cầu. Đây là đại sự cực kỳ đặc biệt nên mới phải ân cần trịnh trọng như vậy.
Kinh văn dùng chữ “誠諦 - thành đế”, thành là trung thực, chân thành; đế là xét kỹ, chắc thật. Không lừa dối chúng sanh nên lời nói đạt đến sự chân thật. Trước đây tùy theo tâm ý của bảy hạng phương tiện mà nói ra nên không gọi đó là trung thực, chân thành; ngày nay Phật tùy nơi Thánh ý tự nói ra để chỉ bày chỗ cốt yếu, cho nên nói là “thành đế”.
Bồ Tát đã kính vâng theo lời răn dạy chân thành nên chẳng dám khởi tâm nghi ngờ. Nghe rồi chấp nhận tin, tin rồi thọ nhận lời thành thật của Phật.
KINH VĂN
“Các ông hãy chú tâm lắng nghe thật kỹ về sức thần thông sâu kín của Như Lai.
“Trong thế gian này, tất cả chư thiên, loài người cho đến a-tu-la đều cho rằng: ‘Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hiện nay là từ hoàng cung họ Thích xuất gia, đến ngồi nơi đạo tràng không xa thành Già-da, chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.’ Nhưng này các thiện nam tử, thật ra ta thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp.”
Phần ý chính giải đáp chia ra văn trường hàng và kệ tụng. Kinh văn trường hàng lại chia làm hai tổng phần, thuyết giảng chánh pháp và nêu thí dụ. Tổng phần thứ nhất thuyết giảng chánh pháp lại chia làm hai phần. Thứ nhất là nói việc [đức Phật] ba đời làm lợi ích chúng sanh; thứ hai, tóm kết nêu việc [lời Phật] không hư dối, [chúng sanh được lợi ích chân thật].
Chúng sanh hữu tình chỉ thấy gần đây trong hiện tại Phật thọ 80 tuổi, chẳng biết được trong quá khứ Phật đã thành đạo từ vô số kiếp, trong tương lai Phật không hề diệt mất. Cho nên dựa vào ba đời mà chỉ bày việc gần, hiển lộ việc xa. Những lợi ích như vậy không chỉ riêng có với Phật Thích-ca Mâu-ni, tất cả chư Phật cũng đều như vậy. Cho nên tóm kết lại mà nói việc lời Phật không hư dối.
Trong tổng phần thuyết chánh pháp không nói về đời tương lai, trong kệ tụng nói thí dụ có đề cập đến. Đại lược là như vậy. [Phần thứ nhất có 2 tổng đoạn.]
Tổng đoạn thứ nhất nói về làm lợi ích chúng sanh trong quá khứ, kinh văn có 2 đoạn. Thứ nhất là từ câu “Các ông hãy chú tâm lắng nghe thật kỹ về sức thần thông sâu kín…” trở đi, nêu ra sự bám chấp vào cách hiểu gần đây của chúng sanh. Thứ hai là từ câu “Nhưng này các thiện nam tử…” trở đi là bác bỏ [cách hiểu] việc gần, hiển lộ việc xa xưa.
Đoạn thứ nhất lại chia làm 3 tiểu đoạn. Thứ nhất là nêu pháp mê lầm, thứ hai là nêu chúng mê pháp, thứ ba là nêu ý nghĩa đã mê từ xa xưa.[38]
Kinh văn nói “sức thần thông sâu kín”, vì một thân Phật tức là ba thân, đó gọi là sâu; ba thân Phật tức là một thân, đó gọi là kín. Lại nữa, những gì thuở xưa không thuyết dạy gọi là kín; chỉ riêng Phật tự rõ biết gọi là sâu.
“Sức thần thông” tức là chỗ hoạt dụng của ba thân. “Sức” là năng lực vận dụng tự do tự tại, tức là Ứng thân; “thần” là lý tự nhiên bất động, tức là Pháp tánh thân; “thông” là trí tuệ không ngăn ngại, không thể nghĩ bàn, tức là Báo thân. Chư Phật ba đời đều có đủ ba thân, nhưng trong các phần giáo pháp [phương tiện] giữ kín [điều này] không truyền dạy, nên tất cả trời, người, a-tu-la trong thế gian đều cho rằng Phật chỉ vừa mới có được ba thân từ khi thành đạo dưới cội cây Bồ-đề. Do vậy mà bám chấp nơi việc [thành đạo] gần đây mà nghi ngờ việc [Phật vốn thành đạo từ bản nguyên] lâu xa. Câu này nói về bản nguyên, không đề cập hàng Nhị thừa, chỉ nói với Bồ Tát, vì Bồ Tát ở trong “tất cả trời, người, a-tu-la” thuộc 3 đường lành, còn [chúng sanh] trong 3 cảnh giới xấu ác thì tội nghiệp nặng nề, căn cơ trì độn, trí tuệ cạn cợt, không biết nói ra như vậy.[39] Cho nên Đại phẩm Bát-nhã nói “Đại thừa thù thắng vượt ngoài trời, người, a-tu-la”, cũng không nói đến ba đường ác.
Bồ Tát [trong phẩm này nói] có 3 hạng: Bồ Tát ở phương dưới đến, Bồ Tát từ các phương khác đến và Bồ Tát từ lâu đã trụ ở cõi này.
Bồ Tát ở phương dưới tức là những vị được Phật giáo hóa từ bản nguyên xa xưa, cho nên không nói ra việc bám chấp rằng Phật thành đạo gần đây.
Bồ Tát từ các phương khác đến và Bồ Tát đã trụ lâu ở cõi này lại cũng có 2 hạng.
- Thứ nhất là các Bồ Tát từ pháp thân ứng hóa sanh ra. Những vị này trong đời trước đã chứng được pháp nhẫn vô sanh, hoặc trước đây đã được nghe [Phật] nêu việc hiện nay để hiển bày chỗ bản nguyên; ví như chưa được nghe thì khi báo thân đã dứt, thọ thân pháp tánh, ở địa vị pháp thân cũng sẽ tự mình được nghe thuyết dạy [về thọ mạng] lâu dài [của Như Lai]. Cho nên hạng Bồ Tát từ Pháp thân ứng hóa sinh ra thì phần nhiều không nói lời bám chấp [việc Phật mới thành đạo] gần đây.
- Thứ hai là hạng Bồ Tát mới đạt được pháp nhẫn vô sinh trong đời này, cùng với những vị chưa đạt được pháp nhẫn vô sinh, cả 2 hạng đều nói những lời [bám chấp] như vậy.
Đoạn thứ hai từ câu “Nhưng này các thiện nam tử, thật ra ta thành Phật đến nay...” nêu rõ việc phá chấp trừ mê để làm rõ bản nguyên từ xa xưa. Phần kinh văn trước răn dạy “nên tin hiểu lời chân thật” chính là lời này.
Phần này lại chia làm hai tiểu đoạn. Thứ nhất là làm rõ việc xa xưa, thứ hai là từ câu “Từ đó đến nay, ta thường…” trở đi, nêu những sự giáo hóa thích hợp để làm lợi ích chúng sanh trong quá khứ.
Tiểu đoạn thứ nhất lại có 2 phân đoạn. Thứ nhất là thuyết chánh pháp để làm rõ việc xa xưa; thứ hai là nêu thí dụ việc suy lường cụ thể nội dung thuyết pháp. Từ khi thành Phật đến nay đã hết sức lâu xa, tức là bác bỏ ý nghĩa mới thành Phật gần đây ở Bồ-đề đạo tràng.
Phân đoạn thứ nhất phá trừ việc gần, hiển bày việc xa, lược nêu có 10 ý, như trong Pháp hoa huyền nghĩa đã nói. Đại lược là như vậy.
Ý chính của phần này là để phá sự bám chấp việc gần đây, hiển bày việc xa xưa. Phá việc gần đây là nói đối với tình chấp trừ bỏ nơi việc gần, làm rõ việc xa xưa, trừ bỏ những lời dạy [phương tiện về việc thành đạo] gần đây.
KINH VĂN
“Ví như có người lấy năm trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi thế giới đại thiên nghiền nát thành bụi nhỏ, [rồi mang theo] đi về hướng đông, qua năm trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước mới để rơi một hạt bụi; cứ đi mãi như thế cho đến khi rơi hết số bụi ấy. Này các thiện nam tử, các ông nghĩ sao, những thế giới như vậy có thể tính toán, suy xét đếm kể để biết được số lượng hay chăng?”
Bồ Tát Di-lặc và đại chúng cùng bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Những thế giới như vậy là vô lượng vô biên, không thể dùng phép tính toán để biết được, cũng không phải phạm vi tâm trí có thể suy xét đến. Cho dù tất cả các vị Thanh văn, Duyên giác dùng trí vô lậu cũng không thể suy xét biết được hạn lượng. Chúng con dù đã trụ nơi địa vị Bất thối nhưng đối với việc này cũng không thể thấu hiểu. Bạch Thế Tôn, những thế giới như vậy là vô lượng vô biên.”
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo chúng Đại Bồ Tát: “Này các thiện nam tử! Nay ta sẽ nói thật rõ ràng với các ông: Nếu mang những thế giới [về phương đông] có bụi rơi xuống và cả những thế giới không có bụi rơi xuống,[40] tất cả đều nghiền nát ra thành bụi nhỏ, mỗi hạt bụi tính là một kiếp, thì thời gian ta thành Phật đến nay còn nhiều hơn số kiếp đó trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp.
Phân đoạn thứ hai nêu thí dụ lại chia làm 3 ý. Thứ nhất là nêu thí dụ để hỏi; thứ hai là [đại chúng] đáp lại; thứ ba là nêu nghĩa tương hợp với thí dụ để làm rõ nghĩa lâu xa.
[Ý thứ nhất nêu thí dụ để hỏi], các kinh khác hoặc rằng số [kiếp] không thể nói hết, hoặc lấy bụi, cát… làm thí dụ, so với [cách thí dụ] ở đây còn nhiều hơn nữa. Chỉ riêng những thế giới có “để rơi một hạt bụi” đã là không thể nói hết, huống chi còn thêm những thế giới không để rơi bụi lên, lại có thể nói hết sao? Lại những thế giới có để rơi bụi và không để rơi bụi ấy đã là không thể nói hết, thì số bụi từ những thế giới ấy nghiền nát ra lại có thể nói hết sao? Huống chi lại còn nhiều hơn cả số đó, lại có thể nói hết sao?
Ý thứ hai từ câu “Bồ Tát Di-lặc và đại chúng…” trở đi là [đại chúng] đáp lại, nêu cả 3 hạng không thể rõ biết [số lượng trong thí dụ, gồm Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát].
Ý thứ ba nêu nghĩa tương hợp với thí dụ thì y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Từ đó đến nay, ta thường ở tại thế giới Ta-bà này thuyết pháp giáo hóa, lại cũng ở nơi trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước khác dẫn dắt làm lợi ích cho chúng sinh.
“Này các thiện nam tử! Trong khoảng thời gian ấy, ta nói về những vị như Phật Nhiên Đăng v.v. lại nói việc các vị Phật ấy nhập Niết-bàn, như vậy đều là dùng phương tiện phân biệt để [giáo hóa].
“Này các thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào tìm đến chỗ ta, ta sẽ dùng Phật nhãn quán xét các căn lành như niềm tin, [sức tinh tấn] v.v. để xem là nhanh nhạy hay chậm lụt, rồi tùy chỗ thích hợp có thể hóa độ, ở mỗi nơi ta đều nói ra danh hiệu khác nhau, tuổi tác khác nhau, cũng thị hiện nói sẽ nhập Niết-bàn, lại dùng đủ mọi phương tiện thuyết dạy giáo pháp vi diệu, có thể khiến cho chúng sinh khởi tâm hoan hỷ.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Từ đó đến nay, ta thường ở tại…” trở đi, nêu việc giáo hóa thích hợp làm lợi ích chúng sanh. Tiểu đoạn này chia làm 3 phân đoạn. Thứ nhất là nêu rõ những nơi Phật làm lợi ích chúng sanh. Thứ hai là quét sạch mối nghi về hình tích nói trên. Thứ ba là từ câu “Này các thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào tìm đến chỗ ta…” trở đi, nêu ý chính về sự giáo hóa thích hợp làm lợi ích chúng sanh.
Phân đoạn thứ nhất cần nêu rõ những nơi Phật giáo hóa làm lợi ích, vì phần trước nói đã thành Phật từ rất lâu xa [nhưng không nói] ở những nơi nào. Cho nên phần này nêu “thường ở tại thế giới Ta-bà này” cùng với các cõi nước khác mà làm các Phật sự, y theo kinh văn có thể hiểu được.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Này các thiện nam tử! Trong khoảng thời gian ấy…” trở đi là quét sạch sự nghi ngờ bám chấp vào hình tích như trên, gồm có nghi nơi nhân và nghi nơi quả. Trước đây Phật thị hiện hình tích dạy việc tu hành tạo nhân nơi này nơi kia, lại nói ở nơi này nơi kia được thụ ký, tức là nghi nơi quả; nay quét sạch đi mối nghi này. Lại dẫn việc nêu Phật Nhiên Đăng… tức là quét sạch mối nghi về nhân. Lại nói về việc nhập Niết-bàn của các đức Phật ấy, tức là quét sạch mối nghi về quả. Những việc nhân quả như vậy cũng chẳng phải là một điều, tất cả do Phật phương tiện nói ra, chưa phải nghĩa chân thật rốt ráo, cho nên nói là quét sạch lòng nghi.
Hoặc có người nói, đức Thích-ca dùng phương tiện nói rằng “Phật Nhiên-đăng là thầy của ta”, nhưng thật sự đó chính là đức Thích-ca hóa hiện thành. Vốn không sanh hóa hiện có sanh, vốn không diệt hóa hiện có diệt, cho nên kinh văn nói “lại nói việc các vị Phật ấy nhập Niết-bàn”.
Nay cho rằng không phải như vậy, chỉ theo cách giải thích trước đây. Vì sao vậy? Vì Phật Nhiên Đăng vào thời ấy duyên đã thuần thục, nên dùng hình tượng Phật để giáo hóa; còn Phật Thích-ca duyên chưa thuần thục, nên chỉ làm Bồ Tát theo Phật được thụ ký. Được thụ ký tức là nghĩa quả; tu hành công hạnh tức là nghĩa nhân. Hiểu rõ kinh văn thì tự thấy đã đầy đủ ý nghĩa. Kinh văn nói “các vị Phật ấy” tức là nói [các vị Phật] trong khoảng thời gian giáo hóa ở giữa, không phải chỉ nói Phật Nhiên Đăng.
Lại nói việc làm lợi ích chúng sanh trong khoảng thời gian ở giữa; tức là lợi ích từ hình tướng và lợi ích từ âm thanh. Nếu chỉ nói Phật Nhiên Đăng thì ở đây có lợi ích từ hình tướng. “Lại nói việc các vị Phật ấy nhập Niết-bàn”, Phật đã nhập Niết-bàn rồi thì có sự trợ giúp hoằng dương giáo hóa, tức là có lợi ích từ âm thanh. Như vậy thì những lợi ích từ hình tướng và âm thanh đều thuộc về nhân trong khoảng thời gian ở giữa. Đã có hình tướng và âm thanh sanh ra, sanh ấy tất nhiên có diệt; diệt tức là nhập Niết-bàn, gọi đây là quả; không thể nói là ở khoảng trung gian ấy đã thành quả Phật rồi. Vì sao vậy? Vì trước hội Pháp hoa chưa nói việc [Thanh văn] thành Phật, làm sao có sự nghi ngờ đối với quả Phật?
Các nhà cựu giải cho rằng Phật Nhiên Đăng là do Phật Thích-ca hóa hiện thành, như vậy cũng không phải là hiểu. Trước khi thuyết Pháp hoa, kinh điển chưa nói việc đã thành Phật từ xa xưa, có giáo pháp nào nói Phật Nhiên Đăng là do Phật Thích-ca hóa hiện mà phải quét trừ mối nghi này?
Phân đoạn thứ ba từ câu “Này các thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào tìm đến chỗ ta…” trở đi là ý chính nêu việc giáo hóa thích hợp làm lợi ích chúng sanh. Đoạn này có 2 ý. Thứ nhất là nói nghĩa cảm ứng, thứ hai là nêu việc thi hành giáo hóa.
Ý thứ nhất, kinh văn nói “tìm đến chỗ ta” tức là nói những chúng sanh thuộc cả 2 căn cơ tiệm và đốn,[41] tức ngấm ngầm phù hợp với Pháp thân. “Dùng Phật nhãn quán xét”, nghĩa là đã thành Phật từ lâu xa, dùng Phật nhãn soi xét thì không có sai sót, từ đó mới khởi lên Liệt ứng thân hoặc Thắng ứng thân, phù hợp để làm lợi ích chúng sanh.
Căn cơ hiền thiện có 2 năng lực. Thứ nhất là chiêu cảm hoa báo[42] trong hai cõi trời, người. Thứ hai là chiêu cảm quả báo trong Phật đạo. Nếu dùng pháp nhãn để quán xét thì rõ biết được muôn duyên lành, dù nặng hay nhẹ cũng đều đạt được hoa báo, nhưng không thể rốt ráo rõ biết những duyên ấy cuối cùng đạt được quả báo trí tuệ giải thoát. Nếu dùng Phật nhãn soi chiếu trọn vẹn muôn điều lành thì rõ biết cặn kẽ từ đầu đến cuối. Kinh này xuyên suốt nêu rõ việc dùng Phật nhãn quán xét rõ biết muôn điều lành của chúng sanh rốt ráo đều được thành Phật. Đây là ý nghĩa chính của việc lớn lao là chư Phật ra đời.
Kinh văn nói “các căn lành như niềm tin…” tức là nói đến cả 5 căn[43] bao gồm tín căn. Tuệ căn là liễu nhân, tức nhân rốt ráo, các căn khác là duyên nhân, tức nhân hỗ trợ. Cả hai nhóm căn lành này, mỗi nhóm đều chia ra có nhanh nhạy, có trì độn, bao quát hết thảy các cơ duyên đốn, tiệm.
Đốn cơ gồm cả nhanh nhạy và trì độn, tức là các căn cơ của Viên giáo, Biệt giáo; tiệm cơ gồm cả nhanh nhạy và trì độn, tức là cơ duyên của Tạng giáo, Thông giáo. Lại nữa, căn cơ Tiểu thừa gọi là trì độn, so với căn cơ Đại thừa gọi là nhanh nhạy. Lại nữa, căn cơ Tiểu thừa gọi là nhanh nhạy, so với căn cơ của nhân thừa và thiên thừa là trì độn. Chúng sanh trong mười pháp giới có các căn lành, lấy sự nhanh nhạy hay trì độn gọi là cơ. Không nói đến các pháp xấu ác, vì pháp xấu ác không phải duyên nhân, không phải liễu nhân. Như Lai soi chiếu hết thảy căn cơ hiền thiện trong mười pháp giới, “rồi tùy chỗ thích hợp có thể hóa độ” mà hóa hiện hình tướng, âm thanh để làm lợi ích chúng sanh.
Ý thứ hai từ câu “ở mỗi nơi ta đều nói ra danh hiệu khác nhau…” trở đi nêu việc ứng hóa thích hợp, lại có 2 tiểu ý. Trước nói việc dùng hình tướng, âm thanh làm lợi ích, sau nói chúng sanh được lợi ích hoan hỷ.
Tiểu ý thứ nhất lại có 2 điều. Thứ nhất là nêu việc không có sinh mà hóa hiện sinh; thứ hai là nêu việc không phải diệt mà hóa hiện diệt.
“Ở mỗi nơi ta đều nói ra danh hiệu khác nhau…”, hình tướng đã hóa hiện thì có tên gọi; nhân nơi tên gọi mà nêu tánh thể. Căn cơ [chúng sanh] có chỗ cao thấp nên hình tướng hóa hiện cũng có hơn kém; hình tướng khác biệt nên tên gọi không giống nhau.
“Tuổi tác khác nhau” cũng tức là hình tướng hơn kém nhau. Hình tướng hơn tức là Thắng ứng thân; hình tướng kém tức là Liệt ứng thân. Tên gọi không giống nhau tức là hai vị Phật hóa hiện tuổi thọ có hạn lượng và không hạn lượng. “Ở mỗi nơi”, nói theo thời gian tức là các cõi nước trong quá khứ đã tu hành nhân địa; nói theo không gian tức là các cõi nước trong mười phương. Nói tên gọi không giống nhau là dựa theo các cõi nước trong từng thời gian. Lại có pháp sinh ra tên gọi không giống nhau, như ứng thân hiện nay so với Phật Nhiên Đăng trong quá khứ. Nếu dựa theo các cõi nước trong không gian thì cũng có tên gọi của pháp sinh ra, như ứng thân Phật hiện nay so với chư Phật phân thân, lại như trong kinh Hoa nghiêm, phẩm Danh hiệu Như Lai[44] kể ra biết bao nhiêu danh hiệu khác nhau của đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Lại như trong các kinh giải thích rằng, Phật có ba thân, danh hiệu không giống nhau, cho nên pháp thể của mỗi danh hiệu cũng đều khác biệt; hoặc nói Tỳ-na, hoặc Xá-na, hoặc Thích-ca… Pháp thân Phật thì gọi là Thật tướng như như, Đệ nhất nghĩa, Bát-nhã, Lăng-nghiêm… dùng những cách so sánh như vậy. Đây là nói dựa vào thân thị hiện trong pháp giới Phật có danh hiệu khác biệt nhau. Nếu nói về thân thị hiện trong 9 pháp giới khác thì danh hiệu rất nhiều, có thể dùng ý “vô lượng vô biên” để hiểu được.
“Tuổi tác khác nhau” tức là nêu nghĩa thọ mạng dài, ngắn. Theo như phần trước nói sự hóa hiện ứng thân của Phật; hoặc nói tuổi thọ 2 muôn, như thời Phật Ca-diếp; hoặc nói tuổi thọ 8 muôn, như thời đức Phật Di-lặc… đó là bổ sung cho nhau để nêu tuổi tác lớn nhỏ, theo thời gian hay không gian có thể biết được. Còn về Pháp thân, Báo thân và Ứng thân Phật thọ mạng dài ngắn thì như trong Pháp hoa huyền nghĩa đã nói. Đại lược là như vậy. Hoặc nói ba thân so sánh nhau để luận tuổi tác lớn nhỏ; hoặc nói 3 thân riêng biệt thì mỗi thân đều là nhỏ, hợp chung lại mà nói thì gọi là lớn, cũng ví như cụm ba dấu chấm.[45] Đại lược là như vậy. Đây đều là vì những chúng sanh thích hợp cần hóa độ mà ứng hiện thân cùng với tuổi thọ dài hoặc ngắn.
“Cũng hiện nói sẽ nhập Niết-bàn”, là đối với những chúng sanh cần phải diệt độ mới có thể hóa độ liền hiện tướng diệt độ, khiến cho họ lưu luyến khát ngưỡng mà được giải thoát. Ý nghĩa này được nêu ra trong phần nói thí dụ ở sau.
“Lại dùng đủ mọi phương tiện thuyết dạy giáo pháp vi diệu”, tức là thị hiện âm thanh làm lợi ích. [Thị hiện] thân nhỏ bé, tuổi thọ ngắn ngủi tức là thuyết tiệm giáo, nên nói là “dùng đủ mọi phương tiện”; thân cao lớn, tuổi thọ lâu dài tức là thuyết đốn giáo, nên nói “giáo pháp vi diệu”.
Tiểu ý thứ hai, tuy ban sơ dùng tiệm giáo nhưng cuối cùng đều khiến cho thể nhập Đại thừa, nên nói là “khiến cho chúng sinh đều khởi tâm hoan hỷ”. Do đó sự hoan hỷ này tức là thi hành giáo hóa mang lại lợi ích. Đức Phật y theo bốn tất đàn để thi hành hai sự lợi ích từ hình tướng và âm thanh; chúng sanh được 4 sự lợi ích,[46] [chẳng hạn như] căn cơ xứng hợp thì vui, căn cơ trái nghịch thì buồn khổ… Kinh văn phần sau nói “đều là chân thật không hư dối” tức là ý nghĩa này.
KINH VĂN
“Thiện nam tử! Đức Như Lai thấy có những chúng sanh ưa thích pháp nhỏ, cấu nhiễm sâu dày, phước đức mỏng manh, nên vì những người ấy mà nói: ‘Ta xuất gia khi nhỏ tuổi, sau đó chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.’ Nhưng thật ra ta thành Phật từ lâu xa như đã nói trên, vì dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh giúp họ thể nhập đạo Phật nên mới nói ra như vậy.
“Này các thiện nam tử! Những kinh điển mà Như Lai giảng giải đều là vì độ thoát chúng sanh; hoặc nói đó là thân mình, hoặc nói là thân Phật khác; hoặc thị hiện thân mình, hoặc thị hiện thân Phật khác; hoặc thị hiện việc của mình, hoặc thị hiện việc của Phật khác; những điều nói ra như vậy đều là chân thật không hư dối.”
Tổng đoạn thứ hai từ câu “Thiện nam tử! Đức Như Lai thấy có những chúng sanh…” trở đi là sức mạnh mẽ phấn chấn như sư tử [của Như Lai] làm lợi ích chúng sanh trong hiện tại. Pháp tam-muội này[47] có 10 công đức.
- Thứ nhất là phân biệt được căn cơ của người khác đã thuần thục hay chưa, có thanh tịnh hay không.
- Thứ hai là dùng Pháp luân của Như Lai để giáo hóa những ai chưa được độ, khiến tất cả đều vào được chánh pháp và giới luật.
- Thứ ba là đại nguyện rộng khắp mười phương, âm thanh cũng vậy; hoặc một âm thanh vang khắp, hoặc trăm ngàn muôn âm thanh đều lan tỏa khắp nơi, giáo hóa tất cả các loài chúng sinh.
- Thứ tư là chuyển bánh xe pháp vô thượng, hóa độ chúng sinh khiến đều đạt đến chỗ diệt độ; duy nhất chỉ Phật chuyển pháp luân được như vậy, người khác không thể.
- Thứ năm là có thể thị hiện xuất gia, cạo bỏ râu tóc, giữ giới thanh tịnh, cũng có thể khiến người khác ưa thích làm theo.
- Thứ sáu là tánh thể, công hạnh đều hợp với không tịch.
- Thứ bảy là phóng hào quang hoặc thị hiện Niết-bàn; hoặc trụ thế, hoặc diệt độ; hoặc thị hiện tướng tốt, hoặc ẩn giấu tướng tốt.
- Thứ tám là hàng phục bốn loại ma.[48]
- Thứ chín là khiến người khác thể nhập yếu chỉ tối thượng, tăng trưởng chỉ và quán.
- Thứ mười là đầy đủ căn bản mười nghiệp lành, gồm ba nghiệp của thân, bốn nghiệp của khẩu, ba nghiệp của ý.[49]
Kinh văn phần này chia làm 2 đoạn. Thứ nhất là nêu cơ duyên chúng sanh chiêu cảm; thứ hai là nói sự cảm ứng hóa hiện.
[Đoạn thứ nhất nêu cơ duyên chúng sanh chiêu cảm.] “Như Lai thấy” tức là dùng Phật nhãn soi chiếu; “có những chúng sanh ưa thích pháp nhỏ”, là chỗ thấy được căn cơ chúng sanh. Kinh Hoa nghiêm nói: “Đại chúng tuy đã thanh tịnh nhưng vẫn còn những người khác ưa thích pháp nhỏ, nếu nghe pháp Đại thừa sẽ sanh tâm nghi ngờ hối tiếc, suốt đêm dài sinh tử suy sụp buồn lo; vì thương những người ấy nên lặng yên chưa thuyết dạy.”
Lời kệ nói rằng:
“Kẻ khác mới tu hành,
Trí tuệ chưa sáng tỏ;
Nương thức, chẳng nương trí.
Nghe rồi lo, hối tiếc,
Sẽ rơi vào đường ác,
Thương họ nên không thuyết.”[50]
Xét như kinh [Hoa nghiêm] ấy không có hàng Thanh văn Nhị thừa, chỉ nói đến những người tu hành chưa được lâu mà gọi là ưa thích pháp Tiểu thừa. Đại sư[51] nói: “Ưa thích pháp nhỏ không phải người tu Tiểu thừa, mà là những người ưa thích pháp hình tích gần đây[52] cho nên nói là nhỏ đó thôi.”
Nay sẽ nói bao quát tất cả, đó là: tham muốn ưa thích 25 cảnh giới hiện hữu là căn cơ của hàng trời người, “tìm đến chỗ ta” gọi là “pháp nhỏ”; tham muốn ưa thích Niết-bàn, mong cầu tự giải thoát, tức là căn cơ của hàng Nhị thừa “tìm đến chỗ ta” cũng gọi là ưa thích pháp nhỏ; ưa thích Phật đạo tuần tự thứ lớp, quanh co xoay vòng, tức là căn cơ của hàng Bồ Tát Tạng giáo “tìm đến chỗ ta”, cũng gọi là ưa thích pháp nhỏ.
“Phước đức mỏng manh” là 2 pháp lành duyên nhân và liễu nhân công năng hoạt dụng còn yếu ớt. Như kinh văn phần sau nói các con [của thầy thuốc] còn thơ dại.
“Cấu nhiễm sâu dày” là chưa dứt trừ được kiến hoặc và tư hoặc.
Hỏi: [Đức Phật] không phải sinh mà thị hiện có sinh ra, thi hành cả 2 cách giáo hóa đốn giáo và tiệm giáo, hàng bảy phương tiện có thể nói là ưa thích pháp nhỏ, còn căn cơ mà viên giáo, đốn giáo hướng đến lẽ ra phải là ưa thích pháp Đại thừa, vì sao lại nói chung đều là ưa thích pháp nhỏ?
Đáp: Phần trước chỉ nói lược qua ý nghĩa, nay sẽ giải thích rộng. Nói chung có 4 ý nghĩa.
Thứ nhất là dựa vào quá khứ, [những người này] tuy phát tâm Đại thừa mà không chuyên cần, tinh tấn, nhiều vướng mắc nơi tham dục xấu xa, không thể vượt thoát khỏi thế tục, nên gọi tham dục xấu xa đó là pháp nhỏ.
Thứ hai là dựa vào hiện tại, như khi Phật chưa ra đời, chư thiên và loài người [trong hạng này] tuy có cơ duyên Đại thừa nhưng tâm nhiễm thế tục, ưa thích bám chấp các tà kiến, cho nên gọi là ưa thích pháp nhỏ.
Hai ý nghĩa này tương đồng với phần sau nêu thí dụ [những đưa con uống nhầm thuốc độc] “lăn lộn trên mặt đất”.
Thứ ba là dựa vào sự tu hành, tuy không ưa thích pháp nhỏ cùng những tham dục xấu xa trong ba cõi, nhưng lại ưa thích sự đoạn diệt của ba thừa[53] nên cũng gọi là pháp nhỏ; tuy không ưa thích các quả vị thấp kém cạn cợt trong ba thừa, nhưng lại ưa thích các pháp tu tuần tự của Biệt giáo hướng đến Nhất thừa, không thể một lòng rộng tu theo pháp Viên giáo đốn ngộ, cho nên gọi là ưa thích pháp nhỏ.
Cả 3 ý nghĩa trên đều là dựa vào nhân môn để nêu việc ưa thích pháp nhỏ. Ý nghĩa thứ tư là dựa vào quả môn.[54] Ưa thích nghe pháp nhỏ nói việc thành đạo gần đây, [rằng Phật] ra khỏi cung điện của dòng họ Thích rồi mới đạt được quả vị Bồ-đề, không ưa thích nghe về đạo lớn lao sâu xa [nói việc đã thành Phật từ] rất lâu, cho nên nói là ưa thích pháp nhỏ. Tâm nhỏ hẹp này không phải ngày nay mới có, vì nếu trước đây ưa thích Đại thừa thì Phật đã không thuyết dạy việc mới thành đạo gần đây. Thuyết dạy việc mới thành đạo gần đây chính là vì những người ưa thích pháp nhỏ.
Đoạn thứ hai từ câu “nên vì những người ấy mà nói…” trở đi nói việc ứng thân hóa hiện trong hiện tại, lại chia ra làm 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nói việc không có sinh mà thị hiện sinh ra; tiểu đoạn thứ hai nói việc không có diệt mà thị hiện diệt độ.
Tiểu đoạn thứ nhất nói việc thị hiện sinh ra lại có 2 phân đoạn. Thứ nhất nói việc thị hiện sinh, thứ hai nói về lợi ích.
Phân đoạn thứ nhất lại có 2 ý, thứ nhất nói thị hiện sinh, thứ hai nói không có sinh.
Ý thứ nhất nói thị hiện sinh tức là bản tích thị hiện có sinh; nói không có sinh là không phải chỉ vừa mới sinh gần đây, chỉ vì những người [ưa thích pháp nhỏ] này nên nói rằng Phật chỉ vừa thành đạo gần đây.
Phần trước nói có 2 căn cơ nhanh nhạy và trì độn đều chiêu cảm pháp thân, nay tức hóa hiện cả thắng ứng thân và liệt ứng thân. Liệt ứng thân là cảm ứng với căn cơ trì độn; thắng ứng thân là cảm ứng với căn cơ nhanh nhạy. Hai ứng thân này đều có đủ hai thân là sinh thân và pháp thân.
Nay nói về hai thân của liệt ứng thân. Dùng trí tuệ chân chánh gá vào thai mẹ, vừa sinh ra liền đi bảy bước như lời thuật lại của Ca-chiên-diên Tử, cho đến trải qua 6 năm khổ hạnh; đó gọi là sinh thân sinh ra. Còn pháp thân sinh ra tức là dùng 34 tâm[55] dứt trừ hết sạch phiền não kết tập mà chứng đạt năm phần pháp thân.
Sinh thân của thắng ứng thân sinh ra thì như các kinh Hoa nghiêm, Đại Bát Niết-bàn… đã nói, là khi ở trong thai mẹ Ma-da vẫn thường thuyết giảng giáo pháp Đại thừa cho các vị Bồ Tát; vừa ra khỏi [thai mẹ] liền đi về mười phương, mỗi phương bảy bước. Đây gọi là sinh thân sinh ra. Còn pháp thân sinh ra là ở nơi đạo trường tịch diệt, với tâm sau cùng của Kim cương định[56] dứt trừ vô minh, đạt trí tuệ tương ưng của bậc Diệu giác, soi chiếu khắp cùng pháp tánh, muôn đức trọn đủ, chủng trí viên mãn soi sáng khắp cùng. Đây gọi là pháp thân sinh ra.
[Về thị hiện] xuất gia, đối với liệt ứng thân là ra khỏi căn nhà sinh tử phần đoạn, thắng ứng thân là ra khỏi cả hai căn nhà sinh tử phần đoạn và sinh tử biến dịch.
Về chứng đạo Bồ-đề, liệt ứng thân phát khởi các trí tuệ vô lậu là tận trí và vô sinh trí do chứng đạt bốn thánh đế có tạo tác,[57] đó gọi là Bồ-đề; thắng ứng thân thì soi chiếu đạo Nhất thật của ba đế,[58] đạt Nhất thiết chủng trí, đó là Bồ-đề.
Ý thứ hai từ câu “Nhưng thật ra ta thành Phật từ lâu xa…” trở đi nêu rõ vốn thật không có sinh ra, chỉ là do hàng trời, người, a-tu-la nhìn thấy sinh thân và pháp thân [Phật] nên nói là vừa mới sinh ra. Điều đó không đúng, vì Phật đã đạt được sanh thân, pháp thân từ rất lâu rồi. Việc ngày nay sinh ra đó không phải thật sinh ra, cho nên nói “từ lâu xa như đã nói trên”. “Như đã nói trên” là lâu xa như phần trước đã dùng thí dụ để nói.
Từ câu “vì dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh…” trở đi nêu ý: đã không phải thật sinh, vì sao lại thị hiện sinh ra? Đó là vì để làm lợi ích cho “những chúng sanh ưa thích pháp nhỏ, cấu nhiễm sâu dày, phước đức mỏng manh”, vì “giúp họ thể nhập đạo Phật”. Cho nên nói là “dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh nên mới nói ra như vậy”. Vì không phải thật sinh mà thị hiện sinh ra, cho nên nói “mới nói ra như vậy”.
Các kinh khác bác bỏ việc sinh ra sinh thân của liệt ứng thân, cho là sinh mà không phải sinh, nhưng vẫn không bác bỏ việc sinh ra pháp thân của liệt ứng thân, sinh mà không phải sinh. Nay kinh Pháp hoa này chính là bác bỏ đến cả việc sinh ra pháp thân của thắng ứng thân, sinh mà không phải sinh. Vì sao vậy? Kinh nói “thật ra ta thành Phật từ lâu xa như đã nói trên”, cho nên biết rằng ngày nay việc sinh ra pháp thân của liệt ứng thân và thắng ứng thân đều bị bác bỏ, nên sinh mà không phải sinh; so với các kinh khác là mãi mãi khác biệt.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Này các thiện nam tử! Những kinh điển mà Như Lai giảng giải…” nêu việc thị hiện sinh ra làm lợi ích về hình tướng và âm thanh, có 2 ý. Trước nói về hình tướng, âm thanh; sau nói việc không hư dối.
[Ý thứ nhất nói về hình tướng, âm thanh,] nêu việc thuyết pháp tức là dạy dỗ bằng âm thanh; chỉ bày tức là nêu quy củ bằng hình tướng. Hình tướng và âm thanh đều không ra ngoài hai nghĩa tự thân mình và thân Phật khác. Nếu nói pháp thân tức là “nói đó là thân mình”, nếu nói ứng thân tức là “nói là thân Phật khác”. Thêm nữa, nói gặp Phật Nhiên Đăng tức là “nói đó là thân mình”, nói Phật Nhiên Đăng là thầy ta tức là “nói là thân Phật khác”. Thị hiện chánh báo tức là “thị hiện thân mình”, thị hiện y báo tức là “thị hiện thân Phật khác”. Tùy theo ý người khác mà nói ra là thuyết về thân Phật khác, tùy theo ý mình nói ra là thuyết về tự thân mình. “Thị hiện việc của mình hoặc thị hiện việc của Phật khác” cũng đều phân biệt theo cách như vậy.
[Ý thứ hai nói việc không hư dối], từ câu “Những điều nói ra như vậy đều là chân thật không hư dối…” lại có 2 tiểu ý. Trước nêu nghĩa không hư dối, sau đó giải thích ý nghĩa không hư dối. Trước là nhấn mạnh vào lợi ích của [sự thuyết dạy bằng] âm thanh để nêu nghĩa không hư dối; sau dùng đồng thời 2 ý để giải thích ý nghĩa không hư dối.
Tiểu ý thứ nhất nêu nghĩa không hư dối. Vì cả 2 căn cơ tiệm và đốn đều nhận được lợi ích từ hình tướng và âm thanh, cho nên [lời Phật nói] không hư dối. Phần trước nói về quá khứ đã nêu rõ “tất cả đều hoan hỷ”, cũng tương tự như lợi ích của thế giới, nay lại nêu rõ “đều là chân thật không hư dối”. Hình tướng và âm thanh của thắng ứng thân và liệt ứng thân phù hợp với hai căn cơ nhanh nhạy và trì độn, giúp cho đều đạt được bốn tất đàn, cho nên không hư dối.
Luận Đại trí độ nêu rõ bốn tất đàn đều là chân thật, nên thế giới tất đàn là chân thật, đối trị tất đàn, vị nhân tất đàn cũng là chân thật. Nhưng nếu xét kỹ cả ba tất đàn này thì đều chỉ là chân thật của thế gian, mà chân thật đó cũng là không chân thật. Trong thế giới duyên khởi thì có ba sự chân thật thế gian này, nhưng trong đệ nhất nghĩa thì đó là không chân thật.
Nếu phân biệt nghĩa không thật và chân thật này dựa theo bản môn và tích môn, thì lợi ích của hai pháp tiệm, đốn cũng có chân thật và không chân thật.
Phương tiện thực hành theo tích môn chưa đạt được lợi ích của đạo chân thật, đó là nhân không thật. Bám chấp vào hình tích gần đây, chưa đạt được lợi ích chân thật của bản địa, tức là quả không thật.
Nay được nghe Phật thuyết dạy về tích môn, tất cả đều thể nhập thật tướng, tức là được lợi ích chân thật từ trong nhân; nghe Phật thuyết dạy về bản môn, liền dứt trừ tình chấp nơi [thị hiện] gần đây, đạt được lợi ích chân thật nơi quả địa dài lâu xa xưa.
Nay đạt được 2 sự chân thật [của bản môn] so với 2 sự không thật của tích môn, đó là nói theo chúng sanh viên đốn.
Đối với tích môn và bản môn cũng có một chân thật, một không chân thật. Đạt được hạnh trung đạo, đó là được lợi ích chân thật nơi nhân địa, nhưng còn chấp vào việc thành đạo gần đây, tức là quả không thật.
Nay nghe Phật thuyết dạy về nhân cũng không riêng được lợi ích chân thật, nghe thuyết dạy về quả xa xưa liền được lợi ích của quả chân thật. Đó là xưa kia có một [lợi ích] không chân thật, nay được một [lợi ích] chân thật, cho nên nói “đều là chân thật không hư dối”.
Hỏi: Đối với thật tướng Đại thừa hiển bày thuở xưa và nay, người đạt ngộ trước sau hẳn phải có khác biệt?
Đáp: Người vào trước, kẻ vào sau, đến khi vượt qua giáo pháp phương tiện[59] thì đều thể nhập trung đạo. Nhưng sự thể nhập có tuần tự, có tức thời, cho nên phân ra thành tiệm giáo, đốn giáo. Lấy ví dụ như việc thể nhập chân đế, người căn cơ trì độn thì dựa vào các pháp phân tích chia chẻ, như quán vô thường...; người căn cơ nhanh nhạy thì dùng pháp nhận rõ bản thể, như quán không; cho nên phân ra thành Tạng giáo, Thông giáo.
KINH VĂN
“Vì sao vậy? Vì Như Lai thấy biết đúng thật tướng trạng của ba cõi không có sinh tử, dù Phật ẩn hình hoặc ra đời, cũng không có việc ở đời hay diệt độ; không phải chân thật cũng không phải hư dối; không phải như vậy cũng không phải khác biệt; không giống như [chúng sanh trong] ba cõi nhìn thấy ba cõi. Những việc như vậy, Như Lai đều thấy biết sáng suốt không có sai lầm.
Tiểu ý thứ hai từ câu “Vì sao vậy? Vì Như Lai thấy biết đúng thật…” giải thích chung về sự không hư dối của việc làm lợi ích chúng sanh. Trước tiên giải thích [sự không hư dối của] việc làm lợi ích bằng hình tướng; sau đó giải thích về sự không hư dối của việc làm lợi ích bằng lời dạy. Trong phần này có 6 cách lập luận nêu rõ ứng thân không lìa pháp thân.[60] Pháp thân vô hình, không có sự sinh khởi hay diệt mất. Căn cơ của chúng sanh có sinh khởi, có diệt mất, chiêu cảm với pháp thân, do nguyện lực của Như Lai nên cùng khởi cùng diệt [với căn cơ chúng sanh], nhưng cái nhìn có sinh khởi, có diệt mất đó là phát xuất từ phía chúng sanh, cho nên dựa vào ba cõi mà nêu ra các vấn đề này.
Tiểu ý này lại có 2 điều. Thứ nhất là soi chiếu theo chân lý nên không hư dối. Thứ hai, từ câu “Chúng sanh vốn có đủ mọi loại căn tánh…” trở đi, nêu ý nghĩa xứng hợp căn cơ nên không hư dối. Vì thiết lập giáo pháp thấu đạt chân lý, xứng hợp căn cơ để giáo hóa chúng sanh nên không hư dối.
[Điều thứ nhất nêu việc soi chiếu:]
- “[Như Lai] thấy biết đúng thật” tức là trí tuệ chân thật, theo đúng chân lý mà soi chiếu sự đúng thật trong ba cõi. Theo lẽ như thật thì trong ba cõi không có tướng nguyên nhân. “Không có sanh tử” là không có sự khổ của 2 loại phần đoạn tử và biến dịch tử.[61]
- Nghiệp huân tập khởi gọi là “ẩn hình”, quả vô thường hiện gọi là “ra đời”. Lại cũng không có việc trụ nơi sanh tử thế gian cũng như diệt độ nhập Niết-bàn; cả hai điều này đều diệt mất nên nói “cũng không có việc ở đời hay diệt độ”.
- Không phải là chân thật của sự diệt độ, cũng không phải là hư dối của sinh tử, cho nên nói “không phải chân thật cũng không phải hư dối”.
- Không phải là ngăn cách khác biệt của thế gian, không phải là chân như của xuất thế, cho nên nói “không phải như vậy cũng không phải khác biệt”.
Bốn câu trên nêu ý nghĩa trung đạo. Nếu phủ định [hoặc xác định] cả 2 bên thì kết luận sẽ nghiêng về một bên. Lấy ví dụ như phủ định cả “không sanh, không tử” thì kết luận sẽ là sanh; xác định cả “là sanh là tử” thì kết luận là tử; phủ định cả “không ẩn hình, không ra đời” thì kết luận là ra đời; xác định cả “là ẩn hình, là ra đời” thì kết luận là ẩn hình; phủ định cả “không hư không thật” thì kết luận là thật; xác định cả “là hư là thật” thì kết luận là hư. Những cách lập luận như vậy nay đều bác bỏ; cho đến lập luận nghiêng về một bên, xen lẫn hai bên hoặc gồm đủ tất cả cũng đều phủ nhận. Như vậy mới có thể hiển lộ được ý nghĩa trung đạo.
“Không giống như [chúng sanh trong] ba cõi nhìn thấy ba cõi”, nghĩa là không giống như tướng trạng ba cõi mà hai hạng chúng sanh[62] trong ba cõi nhìn thấy, chỉ đức Phật là người duy nhất có thể [dùng trí tuệ] như thật soi chiếu cùng khắp tướng thật của ba cõi; nội tâm hàm chứa đầy đủ hoạt dụng của trí tuệ chân thật, cũng tùy ý tự nói ra, hoặc tự nói việc tự thân mình.
Cho nên Đại phẩm Bát-nhã nói: “Trong đệ nhất nghĩa không có chỗ phân biệt, nhưng đức Như Lai dùng trí tuệ quyền biến suy lường đúng thật, thấy biết tướng trạng của ba cõi giống như chúng sanh trong ba cõi nhìn thấy.[63] Dùng trí như thật thấy biết thật không có 2 cách chết,[64] nhưng tùy theo ý chúng sanh mà dạy về 2 cách chết, tự thân nói rằng có 2 cách chết; thật không có thối ẩn hoặc ra đời, nhưng tùy theo ý chúng sanh nói có ẩn hình, có ra đời; thật không có việc trụ thế hay diệt độ, nhưng tùy theo ý chúng sanh nói có trụ thế, có diệt độ; không có gì chân thật nhưng thuyết dạy sự chân thật của Niết-bàn; không có gì không thật nhưng thuyết dạy sự không thật của ba cõi; không có sự khác biệt của ba đời nhưng thuyết dạy có khác biệt; không có lẽ như của chân đế mà nói là có như; tương đồng như chúng sanh trong ba cõi nhìn thấy tướng trạng ba cõi; tất cả như vậy đều là tùy theo ý chúng sanh mà nói, cho nên gọi là “hoặc nói thân khác”, “thị hiện việc của thân khác”.
Hai trí [quyền, thật] của Như Lai soi xét sáng rõ về tục đế và chân đế; cho nên cả 2 lợi ích từ hình tướng và lời nói [của Như Lai] đều chân thật không hư dối.
KINH VĂN
“Chúng sanh vốn có đủ mọi loại căn tánh, mọi sự tham muốn, hành vi, suy tưởng phân biệt khác nhau, vì muốn cho họ sinh khởi các căn lành nên [Như Lai] mới vận dụng không biết bao nhiêu là nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để thuyết giảng đủ mọi giáo pháp; việc thi hành Phật sự chưa từng tạm dứt.”
[Điều thứ hai] từ câu “Chúng sanh vốn có đủ mọi loại căn tánh…” trở đi, giải thích việc xứng hợp căn cơ không hư dối, [có 3 khoản]. Trước tiên nêu việc căn cơ chiêu cảm, tiếp theo luận việc thi hành giáo hóa, cuối cùng là kết lại nghĩa không hư dối.
[Khoản thứ nhất nêu việc] chúng sanh có căn cơ nhanh nhạy, trì độn, tiệm, đốn chẳng đồng; tâm tánh, sự tham muốn, hành nghiệp, trí tuệ đủ loại khác biệt, [nhưng đức Phật] muốn cho mỗi chúng sanh đều được tăng trưởng các căn lành, cho nên mới thuyết dạy giáo pháp tự thân mình hoặc thân khác, các nhân duyên, thí dụ không hư dối.
Căn tánh tu tập tuần tự (tiệm) hoặc tức thời (đốn) [của chúng sanh] mỗi thứ đều có nhiều chủng loại, do vậy phải vận dụng vị nhân tất đàn. Vị nhân tất đàn chính là giúp sinh ra các căn lành. Căn lành cũng chính là tánh, do huân tập tham muốn mà thành tánh, vậy vì sao [kinh văn] trước nói đến tánh, sau mới nói đến tham muốn?
Giải thích rằng: Do nơi căn tánh ngày trước nên mới có thể khởi lên tham muốn ngày nay; cũng như nhân nơi phiền não mới có [thân] năm ấm, lại nhân nơi [thân] năm ấm mà có phiền não, không có điều nào là trước hay sau. Đối với căn tánh và tham muốn cũng vậy, phải do huân tập tham muốn mà thành tánh…[65]
Tham muốn cũng khác biệt ở 2 căn cơ tiệm và đốn, có đủ loại tham muốn khác nhau, do vậy nên vận dụng thế giới tất đàn.
Hành vi là khởi tạo hành nghiệp, tùy theo chỗ tham muốn mà tu các hạnh, do vậy nên vận dụng vị nhân tất đàn.
Trong chỗ tu hành nhiều ưa thích vướng mắc, dẫn đến có chướng ngại, do vậy nên dùng đối trị tất đàn.
Nhớ nghĩ suy tưởng cũng là trí tuệ, tức là trí hiểu biết tương tợ;[66] do tu hành nên có thể sinh ra chỗ hiểu biết. Đây là phương tiện, chưa xứng hợp với lẽ đạo vượt ngoài ngôn ngữ, cũng chỉ là chỗ thấy của niệm tưởng.
Chúng sanh với căn cơ tu tập tuần tự (tiệm) hoặc tức thời (đốn) đều ở trong các giai vị nội phàm, ngoại phàm,[67] có các căn lành cùng tham muốn. Do tham muốn nên tu hành; nhờ tu hành nên được trí hiểu biết tương tợ, do vậy nên vận dụng đệ nhất nghĩa tất đàn. Tùy theo chỗ nhận hiểu của chúng sanh nhờ suy tưởng nhớ nghĩ, Phật liền vì họ mà thuyết pháp, khiến cho sáng tỏ hiểu được chân lý rốt ráo.[68] Thậm chí [hàng Bồ Tát] sơ địa khi muốn tu hành lên nhị địa cũng suy tưởng nhớ nghĩ đến cảnh giới nhị địa, đó tức là niệm tưởng. Nếu phát sinh hiểu biết chân thật về cảnh giới nhị địa liền dứt trừ chỗ thấy của niệm tưởng, pháp ngôn ngữ diệt mất. Chỉ đạt đến quả Phật mới có thể rốt ráo xa lìa nhớ nghĩ suy tưởng, đạt được trí tuệ tịch tịnh thường soi chiếu mà thôi.
[Khoản thứ hai] từ câu “vì muốn cho họ sinh khởi các căn lành…” trở đi [luận việc thi hành giáo hóa], nói việc đức Phật tùy theo căn cơ mà ban cho chúng sanh các lợi ích bằng cách thuyết dạy việc của mình và việc của Phật khác; đối với các căn cơ tuần tự (tiệm) hoặc tức thời (đốn) đủ loại khác nhau, vì muốn làm cho sanh khởi đủ mọi căn lành, nên thị hiện biết bao nhiêu là sự việc của thân mình và thân Phật khác; biết bao nhiêu là thanh âm giáo hóa của tự thân mình và của Phật khác, biết bao nhiêu là nhân duyên thí dụ.
Đối với căn cơ tu tập tuần tự (tiệm) thì dùng 4 cửa vào[69] của Tạng giáo cùng biết bao nhiêu là nhân duyên thí dụ; trong mỗi một cửa vào đó lại cũng có biết bao nhiêu [nhân duyên thí dụ]. Chẳng hạn như vì kẻ lười nhác mà thuyết dạy nhẫn chịu khổ nhọc; vì người ngã mạn mà thuyết dạy nhẫn chịu vô thường. Đại lược là như vậy. Đối với 4 cửa vào của Thông giáo cũng vậy.
Đối với căn cơ tu tập tức thời (đốn) như Biệt giáo, Viên giáo, mỗi giáo pháp lại cũng dùng 4 cửa vào với biết bao nhiêu đủ loại [phương tiện]. Chẳng hạn như 32 vị Bồ Tát [trong kinh Duy-ma-cật],[70] mỗi vị đều nói về thể nhập pháp môn bất nhị [khác biệt nhau]; trong kinh Hoa nghiêm nói đủ loại công hạnh, tướng mạo, đều là vì đủ loại căn cơ mà đưa ra “biết bao nhiêu là nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để thuyết giảng đủ mọi giáo pháp”.
[Khoản thứ ba nói] “Việc thi hành Phật sự chưa từng tạm dứt” là tổng kết lại ý nghĩa không hư dối. Như trên đã nói biết bao nhiêu hình tướng, âm thanh của Phật này Phật khác, đều là vì để giúp cho chúng sanh thể nhập tri kiến Phật, không phải vì việc nhỏ là đạt đến quả vị Tiểu thừa trong hai cõi trời, người, cho nên nói đó là Phật sự. Nếu chỉ một người riêng được diệt độ, những người khác không được, thì chỗ làm Phật sự đó có chỗ bỏ phế. Bỏ phế tức là khiến cho chúng sanh không được lợi ích chân thật, sao có thể tương hợp với ý nghĩa “đều là chân thật không hư dối”?
Thế nào là “đều là chân thật”? Thuở xưa Phật nói ta ngồi nơi đạo tràng chẳng được một pháp thật nào; bảy hạng phương tiện đều không phải diệt độ rốt ráo; hai loại Niết-bàn[71] chỉ là phương tiện như nắm tay rỗng không. Cho nên biết rằng, chỉ thấy những điều không thật, chưa thấy “đều là chân thật”. Nếu thuở xưa bày ra bảy hạng phương tiện là quyền biến, rốt lại không thể nhập vào một pháp chân thật thì có thể nói đều là không thật. Nhờ không thật ấy dẫn dắt mà được thoát ra, không thể ra khỏi không thật mà lại không thể nhập thật, cho nên biết rằng những không thật thuở xưa đều là chân thật. Nói “đều là chân thật không hư dối”, “Phật sự chưa từng tạm dứt”, tức là ý nghĩa như vậy.
KINH VĂN
“Như vậy, từ khi ta thành Phật đến nay đã hết sức lâu xa, tuổi thọ đến vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, thường trụ bất diệt. Các thiện nam tử! Tuổi thọ của ta vốn nhờ tu hành đạo Bồ Tát mà có được, đến nay vẫn chưa dứt, lại còn tăng thêm gấp nhiều lần. Ta nay không thực sự sẽ diệt độ nhưng lại nói rằng: ‘Ta sẽ diệt độ.’”
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Như vậy, từ khi ta thành Phật đến nay đã hết sức lâu xa…” trở đi, nêu ý nghĩa không có diệt độ mà thị hiện diệt độ, lại chia làm 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nêu nghĩa không có diệt độ mà thị hiện diệt độ; phân đoạn thứ hai từ câu “Như Lai dùng phương tiện như vậy…” trở đi, nêu lợi ích của việc thị hiện diệt độ.
Phân đoạn thứ nhất lại có 2 ý . Ý thứ nhất nêu nghĩa vốn thật không có diệt độ. Ý thứ hai từ câu “Ta nay không thực sự sẽ diệt độ…” trở đi nêu nghĩa trong Tích môn nói việc diệt độ.
Ý thứ nhất từ câu “Như vậy, từ khi ta thành Phật đến nay…” trở đi nêu rõ quả vị Phật là thường, là “thường trụ bất diệt”; nhờ vào bốn chữ này để nêu rõ uy thế mạnh mẽ lớn lao trong tương lai thường trụ bất diệt, làm lợi ích chúng sanh.
Từ câu “tuổi thọ của ta vốn nhờ tu hành…” trở đi là nêu nhân so sánh với quả để nói việc thường trụ. Các nhà cựu giải dựa vào chỗ này để cho là nói nghĩa vô thường, rằng trước đây đã trải qua số kiếp như cát sông Hằng, nay “lại còn tăng thêm gấp nhiều lần”, dù có thần thông kéo dài tuổi thọ cũng vẫn là vô thường. Đó là nắm hiểu kinh văn sai lệch, phạm lỗi rất lớn. Kinh văn nêu nhân để so sánh quả, quả đó không có số lượng. Kinh văn lại nói, từ lâu xa tu tập nghiệp lành nên được tuổi thọ vô số kiếp, không phải là do thần thông kéo dài tuổi thọ. Vì sao vậy? Phật tu hành nhân viên mãn, khi vừa lên bậc sơ trụ liền được thường thọ; thường thọ ấy đã không phải là lấy số tuổi thọ nhân gấp bội lên, huống chi là tuổi thọ khi đã chứng quả? Vì sao lại vất bỏ quả được so sánh mà vội chấp vào nhân nêu ra để so sánh? Lại ví như chấp lấy nhân này thì cũng đã là thường, chẳng phải vô thường, cũng giống như khi còn là thái tử bổng lộc đã dùng không hết, huống chi lúc lên ngôi vua, bổng lộc ấy há có thể dùng hết được sao? Kinh văn ở đây sáng tỏ rõ ràng, đâu cần nhận hiểu vòng vo vặn vẹo gây nghi ngờ cho người đời sau?
Ý thứ hai từ câu “Ta nay không thực sự…” trở đi, nêu nghĩa trong Tích môn nói việc diệt độ. Cả ba thân Phật đều có nghĩa “không diệt độ mà nói diệt độ”.
Như kinh Tịnh Danh[72] nói: “Pháp vốn không sanh, nay ắt không diệt”; tức là nói pháp thân không diệt. Lại nói: “Đó là nghĩa tịch diệt”; tức là nói diệt độ. Vì sao vậy? Nếu đã chứng đạt thấu triệt thì không nói tịch diệt; vì những người chưa thấu triệt nên mới nói tịch diệt. Nếu nói soi chiếu chỗ tịch tịnh tức là nói diệt độ; nói tịch tịnh mà soi chiếu tức là nói sinh khởi.
Pháp thân tuy không sinh không diệt nhưng cũng có sự sinh diệt. Nếu tâm mê muội bám chấp thì phiền não sinh mà trí tuệ diệt; nếu tâm giải thoát, không đắm nhiễm thì trí tuệ sinh, phiền não diệt. Diệt mê hoặc, sinh giải thoát, đó là diệt vô thường. Nếu giải thoát sinh, mê hoặc diệt, đó mới là tịch diệt.[73] Sự sinh diệt như vậy là dựa vào tánh pháp để biện luận. Nếu không có cả 2 duyên mê hoặc và giải thoát, ắt không nói là có sự sinh diệt này.
Báo thân không diệt mà nói có diệt. Ai có trí tuệ, ai có phiền não mà nói là trí tuệ có thể phá phiền não? Đây chính là nghĩa sáng tối không trừ bỏ nhau,[74] tức là nghĩa báo thân chẳng diệt. Chúng sanh chưa hiểu rõ nghĩa, nghe như vậy cho rằng [báo thân] đó tức là Phật, liền sinh tâm kiêu mạn phóng túng, không chịu tu tập đạo pháp. Cho nên nói rằng: “Đạo có thể diệt mê hoặc.” Lúc có phiền não thì không có trí tuệ, lúc có trí tuệ thì không có phiền não, chẳng phải là trí tuệ có thể diệt trừ phiền não đó sao?
Ứng thân không diệt mà nói có diệt. Ứng thân là tác dụng của pháp thân và báo thân. Thể tánh đã không diệt, tác dụng lẽ nào lại có chỗ cùng tận? Tức là nghĩa ứng thân không diệt. Chỉ vì chúng sanh nếu thường được thấy Phật liền sanh kiêu mạn phóng túng, nên Phật mới nói rằng: “Đêm nay ta sẽ diệt độ.”
Lại nữa, tự thể pháp thân rõ ràng là không diệt. Báo thân nếu nói không diệt là dựa vào pháp thân [mà nói]. Nếu dựa theo lý lẽ mà luận việc trí tuệ có công năng phá trừ [phiền não] thì đó là vì chỗ đạt ngộ mà phá trừ hay vì chưa đạt ngộ mà phá trừ?[75] Vì cả hai mà phá trừ hay chỉ vì riêng một bên mà phá trừ? Suy xét theo lý lẽ như vậy thì thấy không có công năng phá trừ, tức là ý nghĩa trí tuệ thật không diệt trừ mê hoặc. Thế nhưng khi có trí tuệ thì không có phiền não, tức là trí tuệ có khả năng diệt trừ mê hoặc.
Ứng thân nếu nói không diệt thì phải dựa vào pháp thân và báo thân [mà nói]. Pháp thân và báo thân đã thường trụ như nhiên thì ứng dụng của hai thân ấy cũng không dứt mất. Chúng sanh còn chưa được hóa độ hết thì [ứng thân Phật] không diệt độ.
[Cho nên, với] pháp thân thì dựa vào tự thể để luận việc không sanh diệt; báo thân thì chứng đạt thấu triệt nên không thể có việc sanh diệt; ứng thân thì [hóa hiện] tiếp nối liên tục nên không có sanh diệt. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
“Như Lai dùng phương tiện như vậy để giáo hóa chúng sanh. Vì sao vậy? Vì nếu Phật ở đời lâu dài thì những người phước mỏng không gieo trồng căn lành, sống nghèo khó hèn hạ, tham chấp năm món dục, đắm chìm trong mạng lưới nhớ nghĩ suy tưởng, thấy biết hư vọng. Nếu thấy Như Lai sống mãi ở đời không diệt độ, họ liền khởi tâm kiêu căng phóng túng, ôm lòng chán nản lười nhác, không nghĩ rằng khó được gặp Phật, không khởi tâm cung kính.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Như Lai dùng phương tiện như vậy để giáo hóa…” trở đi nêu việc thị hiện diệt độ làm lợi ích chúng sanh, chia làm 2 ý. Ý thứ nhất nói không diệt độ thì chúng sanh chịu tổn hại; ý thứ hai từ câu “Cho nên Như Lai dùng phương tiện nói rằng…” trở đi nêu rõ, nếu nói việc diệt độ thì chúng sanh sẽ được lợi ích.
Ý thứ nhất có 2 tiểu ý. Trước nói việc không diệt độ sẽ có tổn hại; sau giải thích rộng việc không có diệt độ.
Tiểu ý thứ nhất nói việc có tổn hại, vì những người ưa thích pháp nhỏ như đã nói ở trước, nếu thấy Phật thường ở đời sẽ không gieo trồng căn lành; những kẻ nghèo khốn hèn kém không khởi sinh 2 loại pháp lành[76] nên không được lợi ích. Họ không dứt trừ kiến hoặc và tư hoặc, không dứt trừ 2 loại pháp xấu ác[77] nên phải chịu tổn hại.
“Tham chấp năm món dục, đắm chìm trong mạng lưới nhớ nghĩ suy tưởng.” Nhớ nghĩ suy tưởng tức là kiến hoặc; năm món dục tức là tư hoặc. Do những điều này mà chúng sinh nhiều cấu nhiễm nặng nề, cho nên [Phật] phải nói việc diệt độ. Nếu Phật không nói việc diệt độ thì 2 loại pháp xấu ác sẽ sinh khởi mà không diệt mất; 2 loại pháp lành bị hao tổn mà không sinh khởi.
Nếu y theo bốn tất đàn thì thị hiện diệt độ tức là 2 loại pháp xấu ác diệt đi, 2 loại pháp lành được sinh khởi.
Vì diệt 2 loại pháp xấu ác nên vận dụng đối trị tất đàn và đệ nhất nghĩa tất đàn. Đệ nhất nghĩa tất đàn diệt những điều xấu ác chưa sinh khởi; đối trị tất đàn diệt những điều xấu ác đã sinh khởi.
Vì làm sinh khởi 2 loại pháp lành nên vận dụng thế giới tất đàn và vị nhân tất đàn. Thế giới tất đàn làm sinh khởi những điều lành chưa sinh khởi; vị nhân tất đàn làm tăng trưởng những điều lành đã sinh khởi.
Lại nữa, thế giới tất đàn diệt trừ những điều xấu ác đã sinh khởi; đối trị tất đàn diệt trừ những điều xấu ác chưa sinh khởi, như thiền quán về năm ấm diệt được các điều xấu ác trong Dục giới, tức là thế giới tất đàn diệt trừ những điều xấu ác đã sinh khởi.
Vị nhân tất đàn làm tăng trưởng những điều lành đã sinh khởi; đệ nhất nghĩa tất đàn làm khởi sinh những điều lành vô vi chưa sinh khởi.
Tiểu ý thứ hai từ câu “Nếu thấy Như Lai sống mãi ở đời…” là giải thích rộng. Nếu [chúng sanh] thấy Phật thường ở đời liền “khởi tâm kiêu căng phóng túng, ôm lòng chán nản lười nhác”… cho nên có sự tổn hại; không thể sinh tâm cung kính cho nên không được lợi ích. “Kiêu căng phóng túng” là tăng thêm kiến hoặc; “chán nản lười nhác” là sinh khởi tư hoặc.
“Không nghĩ rằng khó được gặp Phật” tức là không khởi sinh hiểu biết kiến đế;[78] “không khởi tâm cung kính” tức là không thể khởi sinh tư duy theo chánh đạo.
Vì những ý nghĩa đó cho nên Phật phải thị hiện việc diệt độ. Nếu chúng sanh thấy nghe việc ba thân Phật[79] đều không diệt mất, liền hiểu theo nghĩa làm khởi sinh kiêu căng phóng túng, cho rằng “chúng sanh là như, Di-lặc là như, chỉ có nhất như, không có nhị như, tất cả đều bình đẳng, tức là chân thật”.[80] Do nghĩ như vậy liền sinh tâm kiêu mạn khinh thường, cho rằng hết thảy các phiền não vốn trước không sinh ra, nay cũng chẳng diệt đi thì cần gì phải tu tập đạo pháp; do đó liền mặc tình phóng túng lười nhác. Vì những người như vậy mà nói việc diệt độ, đây là ý nghĩa của tịch diệt.
Lại nữa, khi chúng sanh nghe rằng tất cả chúng sinh đều là tướng Bồ-đề; rằng tướng Bồ-đề là tướng phiền não; rằng sáng với tối không trừ bỏ nhau, cùng hiển lộ Bồ-đề của chư Phật... nghe như vậy rồi liền khởi sinh kiêu mạn phóng túng, không chịu tu tập điều lành, lười nhác buông lung. Vì những người như vậy nên Phật nói rằng, báo thân dùng trí tuệ có thể diệt trừ phiền não, trí Bồ-đề của Phật có thể diệt trừ sức vô minh lớn lao.
Ứng thân Phật không diệt mà thị hiện diệt độ, điều này dễ hiểu.
Nếu nói rằng pháp vốn không sinh, nay cũng không diệt, thì phải tu tập dứt trừ mê hoặc rồi mới đạt đến tịch diệt.
Kinh điển dạy rằng: Trí tuệ không dứt trừ phiền não, nhưng khi sáng thì không có tối. Chúng sanh ngày nay đầy các phiền não thì làm sao có thể có trí tuệ? Nên biết rằng trí tuệ có thể diệt trừ mê hoặc che chướng.
Chúng sanh nghe Phật nói việc diệt độ như vậy, liền đối với ba thân Phật đều sinh ý tưởng cho là khó gặp, khởi tâm cung kính.
KINH VĂN
Cho nên Như Lai dùng phương tiện nói rằng: ‘Các tỳ-kheo nên biết, rất khó được gặp chư Phật ra đời!’ Vì sao vậy? Những người phước mỏng, trải qua vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp, có khi được gặp Phật, có khi không được gặp Phật. Do vậy nên ta nói: ‘Các tỳ-kheo! Rất khó được gặp Như Lai.’ Những chúng sanh nói trên nghe được lời này ắt sẽ nghĩ rằng rất khó được gặp Phật, ôm lòng luyến mộ, khát ngưỡng đối với Phật, liền gieo trồng căn lành. Cho nên, Như Lai tuy không thật sự diệt độ nhưng nói rằng diệt độ.
“Lại nữa, này các thiện nam tử! Pháp của chư Phật Như Lai đều như vậy, vì hóa độ chúng sanh nên hết thảy đều chân thật không hư dối.”
Ý thứ hai từ câu “Cho nên Như Lai dùng phương tiện…” trở đi, nói việc diệt độ là có lợi ích, có 2 tiểu ý. Trước tiên xưng tán việc khó được gặp Phật, kế đến giải thích ý nghĩa khó gặp, cả ba thân Phật đều khó gặp.
[Tiểu ý thứ nhất xưng tán việc khó được gặp Phật.] Chúng sanh ưa thích pháp nhỏ, kiến hoặc và tư hoặc che chướng nặng nề, nếu nghe nói ba thân Phật không diệt mất ắt sẽ không tu tập đạo pháp, khó lòng khế hợp [chân lý].
[Tiểu ý thứ hai] từ câu “Vì sao vậy…” trở đi là phần giải thích. “Những người phước mỏng, trải qua vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp, có khi được gặp Phật, có khi không được gặp Phật.” Nếu được gặp ba thân Phật thì đó là người nhiều phước lành, ít nghiệp xấu ác, nên không phải vì hạng người này mà nói việc diệt độ. Hạng người này vẫn thường thấy Phật ở tại Linh sơn.
“Có khi không được gặp Phật…”, hạng người này phước lành ít, che chướng nặng nề, nên vì họ nói ba thân Phật rất khó gặp. Những chúng sanh này nghe vậy liền nghĩ, ba thân Phật tuy chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, nhưng phải tu tập sinh khởi điều thiện, diệt trừ mê hoặc mới có thể được gặp; việc này thật không dễ dàng, cho nên nói là khó gặp.
“Ôm lòng luyến mộ, khát ngưỡng đối với Phật”, đây là nêu nghĩa thị hiện diệt độ không làm tổn hại. Diệt trừ kiến hoặc, tư hoặc nên gọi là không tổn hại; “liền gieo trồng căn lành” nên gọi là có lợi ích.
KINH VĂN
“Lại nữa, này các thiện nam tử! Pháp của chư Phật Như Lai đều như vậy, vì hóa độ chúng sanh nên hết thảy đều chân thật không hư dối.”
Phần thứ hai từ câu “Lại nữa, này các thiện nam tử…” trở đi, tóm kết ý nghĩa ba đời làm lợi ích chúng sanh, chúng sanh được lợi ích chân thật, chia làm 3 phần. Thứ nhất nêu việc chư Phật xuất hiện trong đời có năm sự uế trược, tất nhiên trước dạy ba thừa, sau quy về Nhất thừa; trước dạy tích môn thành đạo gần đây, sau nói bản môn thành đạo từ lâu xa, [nên nói “đều như vậy”]. Thứ hai nêu rõ tất cả đều là “vì hóa độ chúng sanh”. Thứ ba nói rõ “hết thảy đều chân thật không hư dối”.
KINH VĂN
“Ví như có vị thầy thuốc trí tuệ sáng suốt, biết rõ các phương thuốc, giỏi điều trị đủ các bệnh. Vị ấy có nhiều con, hoặc mười, hoặc hai mươi, thậm chí đến hàng trăm người con. Vị ấy có việc phải đi xa đến nước khác. Sau đó, những người con uống nhầm thuốc độc, bị thuốc phát tác làm cho mê loạn, lăn lộn trên mặt đất.”
Tổng phần thứ hai từ câu “Ví như có vị thầy thuốc…” trở đi là nói thí dụ, có 2 phần nêu thí dụ và nói nghĩa tương hợp với thí dụ.
Phần thứ nhất nêu thí dụ lại có 2 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất nêu thí dụ thầy thuốc trị bệnh cho con, tương ứng với phần trước nói việc chư Phật ba đời ứng hiện biến hóa thích hợp. Tổng đoạn thứ hai nêu thí dụ trị bệnh cho con, các con được lợi ích chân thật, tương ứng với phần trước nói ba đời chư Phật làm lợi ích chúng sanh không hề hư dối. Kinh văn phần trước không nói về tương lai, phần này nói đủ.
Tổng đoạn thứ nhất lại có 3 đoạn. Thứ nhất, thí dụ thầy thuốc có việc đi xa, tương ứng với việc chư Phật làm lợi ích chúng sanh trong quá khứ. Thứ hai, nói việc vị thầy thuốc quay về rồi lại ra đi, tương ứng với việc chư Phật ứng hóa trong hiện tại. Thứ ba, nói việc vị thầy thuốc lại quay về, tương ứng với việc chư Phật ứng hóa trong tương lai.
Phần nói việc [lợi ích chúng sanh] trong quá khứ, kinh văn có 2 ý. Thứ nhất là khai mở việc mới thành đạo gần đây, hiển bày việc đã thành đạo từ lâu xa. Thứ hai là nêu việc ứng hóa thích hợp trong quá khứ. Nay trong thí dụ chỉ nêu việc ứng hóa thích hợp.
Việc nêu nghĩa thích hợp [trong phần trước] lại có 3 ý. Thứ nhất là xứ sở thích hợp; thứ hai là quét sạch nghi ngờ về tích môn; thứ ba là nói ý chính ứng hóa. Nay trong thí dụ chỉ nói việc ứng hóa.
Phần trước nói việc ứng hóa lại có 2 ý. Thứ nhất nêu căn cơ chiêu cảm; thứ hai nêu ý chính ứng hóa. Nay trong thí dụ đều có đủ.
“Như có vị thầy thuốc” là thí dụ tương ứng với đoạn sau phần trên nói “ta sẽ dùng Phật nhãn quán xét”, nói nghĩa Phật có trí tuệ để ứng hiện. “Vị ấy có nhiều con” là thí dụ tương ứng với phần trên ở trước nói “có chúng sanh nào tìm đến chỗ ta”, tức là nói cơ duyên có thể chiêu cảm. Phần trước nói việc ứng hóa thích hợp nêu 2 ý, thứ nhất là lợi ích chúng sinh, thứ hai nêu sự hoan hỷ. Nay phần này chỉ nói thí dụ lợi ích chúng sanh. Phần trước nói lợi ích chúng sanh lại có 2 ý, thứ nhất là không phải sinh mà thị hiện sinh, thứ hai là không phải diệt mà thị hiện diệt. Nay chỉ nói thí dụ việc thị hiện diệt.
[Đoạn thứ nhất,] trước tiên nói “có vị thầy thuốc”. Thầy thuốc có 10 hạng.
- Hạng thứ nhất là thầy thuốc trị bệnh nhưng bệnh lại tăng thêm, không giảm bớt, hoặc có lúc đến mức phải chết. Hạng này thí dụ cho hàng ngoại đạo chấp không,[81] buông thả tâm ý làm việc xấu ác, dạy người khác sinh khởi tà kiến dứt mất căn lành. Pháp thân đã mất, sinh mạng trí tuệ cũng chết.
- Hạng thứ hai là thầy thuốc trị bệnh nhưng bệnh chẳng tăng thêm, cũng không giảm bớt. Hạng này thí dụ cho hàng ngoại đạo khổ hạnh chấp có,[82] như lao vào vách đá, nhảy vào đống lửa, chịu cực hình khổ sở cho đó là làm thiện, không đạt được thiền định. Không dứt được phiền não, tức là bệnh không giảm bớt, nhưng cũng không thể dứt mất căn lành, tức là bệnh không tăng thêm.
- Hạng thứ ba là thầy thuốc trị bệnh thuyên giảm, không tăng thêm. Cũng giống như thầy thuốc thế gian tuy trị được khỏi bệnh nhưng về sau bệnh lại tái phát. Đây tức là hàng ngoại đạo nhờ tu thiền định dứt trừ được phiền não.[83]
- Hạng thứ tư là thầy thuốc trị bệnh khỏi rồi không còn tái phát, nhưng không trị được hết tất cả bệnh. Đây là thí dụ cho hàng nhị thừa, có thể hóa độ được một vài hạng người đủ duyên, không thể hóa độ tất cả chúng sanh.
- Hạng thứ năm là thầy thuốc tuy có thể trị được tất cả các bệnh nhưng không có phương thuật khéo léo để dứt sự đau đớn. Luận Đại trí độ gọi đây là hóa độ vụng về, tức là thí dụ cho hàng Bồ Tát tu sáu ba-la-mật dùng tâm từ bi rộng độ chúng sanh.
- Hạng thứ sáu là thầy thuốc trị bệnh có phương thuật khéo léo, có thể trị dứt bệnh không còn đau đớn khổ não, nhưng không thể trị những bệnh nan y phải chết. Đây là thí dụ cho hàng Bồ Tát Thông giáo, thể chứng được pháp, có thể hóa độ cho hàng phàm phu luân chuyển trong ba cõi,[84] nhưng không thể hóa độ hàng Nhị thừa đã mất hạt giống Phật.[85]
- Hạng thứ bảy là thầy thuốc tuy có khả năng trị được những bệnh khó lành, nhưng không thể cùng lúc trị được tất cả các bệnh. Đây là thí dụ cho hàng Bồ Tát Biệt giáo.
- Hạng thứ tám là thầy thuốc có khả năng cùng lúc trị được tất cả các bệnh, nhưng không thể giúp cho bệnh nhân bình phục hoàn toàn như trước. Đây là thí dụ cho hàng Bồ Tát Viên giáo từ sơ tâm lên đến Thập tín.
- Hạng thứ chín là thầy thuốc có khả năng cùng lúc trị được tất cả bệnh, cũng có thể giúp cho bệnh nhân bình phục như trước, nhưng không thể làm cho khỏe mạnh hơn trước. Đây là thí dụ cho hàng Bồ Tát Viên giáo đạt đến tâm sau cùng.[86]
- Hạng thứ mười là thầy thuốc có khả năng cùng lúc trị được tất cả các bệnh đều bình phục, lại khiến cho bệnh nhân được khỏe mạnh hơn trước kia. Đây tức là thí dụ cho đức Như Lai.
Ba hạng thầy thuốc đầu tiên tức là người “thầy thuốc trước đây” (cựu y) được nói trong kinh Đại Bát Niết-bàn, là người thầy thuốc chỉ dùng sữa làm thuốc.[87] Bảy hạng thầy thuốc sau tức là “thầy thuốc đến sau” (khách y). Nói không có phương thuật tức là chỉ dùng các pháp vô thường, khổ v.v. như dùng các vị cay, đắng, chua… làm thuốc. Có phương thuật tức là thầy thuốc đến sau cuối cùng quay lại cho dùng sữa, đó mới là vị lương y sau cùng giỏi nhất.
Nói “lương y” tức là thầy thuốc giỏi. Bên trong có đủ tam đạt ngũ nhãn,[88] tức là 8 phương thuật khéo biết được tính chất các loại thuốc; giỏi việc chữa trị, tức là bên ngoài rõ biết nguyên nhân của bệnh nên có thể dùng thuốc.
“Trí tuệ sáng suốt” tức là nói 2 trí quyền và thật, rõ biết sâu xa tục đế và chân đế. “Biết rõ” tức là dùng 5 loại mắt quán sát rõ biết căn cơ nhanh nhạy hay chậm lụt, không hề sai lệch; “các phương thuốc” là nói 12 thể loại kinh điển văn từ nghĩa lý hết sức sâu xa, như các phương thuốc được tinh luyện kỹ lưỡng. Nương theo bốn pháp tất đàn để trị bệnh của chúng sanh, cũng như thầy thuốc “giỏi điều trị đủ các bệnh”.
Kinh Vô lượng nghĩa gọi [đức Phật] là Y vương, Đại Y vương. Vì là bậc đại y nên gọi là lương y. “Vị ấy có nhiều con”, nói “hoặc mười” là hàng Thanh văn,[89] “hoặc hai mươi” là nói hàng Duyên giác,[90] “thậm chí đến hàng trăm” là nói hàng Bồ Tát.
Nói Bồ Tát là con Phật có 3 ý nghĩa.
Ý nghĩa thứ nhất là hết thảy chúng sanh đều có đủ 3 loại tánh đức của tánh Phật,[91] tức là Phật tử. Do vậy kinh văn nói: “Nay khắp ba cõi này, đều thuộc về Như Lai; nên chúng sanh trong đó, đều là con Như Lai.”
Kinh văn ở đây nói “có nhiều con”, dựa theo 10 pháp tâm sở[92] tức là có 100 con. Tâm vương là chánh nhân Phật tánh, trí tuệ là liễu nhân tánh, ngoài ra 9 [tâm sở khác] nương giúp lẫn nhau sinh khởi nên là duyên nhân tánh. Một tâm sở khởi sinh thì 9 tâm sở khác giúp vào, như vậy thành số 100.
Tánh đức của Phật tử chẳng phải thiện, chẳng phải ác, nhưng thông cả thiện ác. Vì thế, 10 tâm sở này cùng với tâm vương gọi là các thông tâm sở. Do vậy, ba loại nhân của tánh đức đều thuộc về chánh nhân Phật tử.
Ý nghĩa thứ hai là vì thuở xưa đã kết duyên nên là con Phật, như 16 vị vương tử khi giảng lại kinh Pháp hoa, người nghe pháp cũng khởi sinh được chút hiểu biết, tức thành tánh liễu nhân; thuở xưa có tu hành đôi chút, là tánh duyên nhân; tánh chánh nhân là căn bản. Cả 3 nhân ấy đều thuộc duyên nhân, nhờ đó ngày nay mới phát sinh được sự hiểu biết một lẽ chân thật. Cho nên lấy sự kết duyên ngày xưa mà gọi là duyên nhân Phật tử, tức là 30 người con ở trong căn nhà đang cháy. Ở đây dựa theo 10 tín tâm,[93] khi một tín tâm sinh khởi tức là có đầy đủ 9 tâm kia, cho nên 10 tín tâm trở thành 100 tín tâm. Do vậy được kết duyên làm Phật tử.
Ý nghĩa thứ ba, do liễu nhân nên là Phật tử, tức là [những người] ngày nay được nghe kinh Pháp hoa, trụ yên trong trí tuệ chân thật, biết chắc mình sẽ được làm Phật, thấu hiểu rõ ràng về pháp Thanh văn, biết được kinh Pháp hoa này là vua trong các kinh; [những người ấy là] từ miệng Phật sanh ra, được một phần Phật pháp, cho nên gọi là Phật tử chân thật.
Điều này cũng có đủ 3 tánh nhân. Ngày nay đã hiển lộ, thấy rõ Phật tánh, đều thuộc về liễu nhân Phật tử. Ý nghĩa 100 con quay lại tương ứng với 10 tâm sở thể nhập trong 10 pháp lành, 10 tín tâm thể nhập trong giai vị Sơ trụ, cho nên chánh nhân thông cả từ ban đầu cho đến cuối cùng. Kinh văn phần này nêu rõ nghĩa 100 con, không nói đến hàng liễu nhân Phật tử. Liễu nhân Phật tử được nói rõ ở phần sau [trong thí dụ những người con] còn tỉnh táo chịu uống thuốc.
“Có việc phải đi xa đến nước khác” là thí dụ cho ứng hóa thân trong quá khứ đã thị hiện diệt độ.
[Đoạn thứ hai] từ câu “Sau đó, những người con…” trở đi, nói việc [người cha] trở về rồi lại đi là thí dụ cho hiện tại làm lợi ích chúng sanh. Phần này lại có 2 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất từ “Sau đó, những người con uống nhầm thuốc độc…” thí dụ kinh văn phần trên nói việc đức Phật quán sát căn cơ tương ứng “thấy có những chúng sanh… …cấu nhiễm sâu dày, phước đức mỏng manh”, tức là những chúng sanh sau khi Phật diệt độ thì ưa thích bám chấp các pháp của tà sư trong ba cõi, cho nên nói là “uống nhầm thuốc độc”. [Cũng giống như] khi người cha đi đến nước khác, [chúng sanh] lại phải lưu chuyển luân hồi, sa đọa trong ba cõi, cho nên nói là “lăn lộn trên mặt đất”.
KINH VĂN
“Khi ấy, người cha trở về nhà. Những người con đã uống nhầm thuốc độc, có người mất lý trí, có người còn tỉnh táo, nhưng từ xa nhìn thấy cha thì tất cả đều hết sức mừng rỡ, quỳ lạy thưa hỏi vấn an: ‘Mừng thay, cha đã quay về bình yên. Chúng con ngu si đã uống nhầm thuốc độc, xin được cha cứu chữa, giữ lại mạng sống.’”
[Tiểu đoạn thứ hai] từ câu “Khi ấy, người cha trở về nhà…” trở đi là thí dụ kinh văn phần trước nói “Ta xuất gia khi nhỏ tuổi, sau đó chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” [Trong phần trước,] đây là đoạn thứ hai nói nghĩa không phải sanh mà thị hiện sanh. [Phần này có 4 phân đoạn.]
[Phân đoạn thứ nhất,] kinh văn phần trước có 2 ý, nêu [lợi ích từ] hình sắc (thân tướng), âm thanh (thuyết pháp) [của Phật] và nói những lợi ích đó không hư dối. Nay nói việc các con uống thuốc độc [cho đến người cha] “bỏ đi sang nước khác” là thí dụ kinh văn phần trước nói lợi ích từ hình sắc (thân tướng Phật). Tin nhận các pháp của hạng tà sư gọi là “uống thuốc độc”; “đã mất lý trí” tức là không có căn cơ cảm ứng Đại thừa, Tiểu thừa; “còn tỉnh táo” là có căn cơ cảm ứng Đại thừa, Tiểu thừa.
Lại nữa, “đã mất lý trí” là nói việc đắm chấp trong ba cõi làm mất đi những căn lành trong ba thừa trước đã gieo trồng. [Đức Phật] vì những người này nên không diệt độ mà nói sẽ diệt độ. “Còn tỉnh táo” là nói tuy bám chấp năm món dục lạc nhưng không để mất căn lành trong ba thừa. [Đức Phật] vì những người này nên không có sinh mà thị hiện đản sinh. [Vì những người này có] tâm hiền thiện mạnh mẽ, tâm xấu ác yếu ớt, khi được gặp Phật liền có thể tu tập đạo pháp, dứt trừ phiền não; ví như những người con gặp cha, cầu xin được thuốc liền khỏi bệnh. [Còn những người] tâm hiền thiện yếu ớt, tâm xấu ác nặng nề khi được gặp Phật, tuy cũng cầu cứu độ nhưng không chịu tu tập đạo pháp, ví như những người con gặp cha cầu cứu nhưng rồi không chịu uống thuốc. Người cha vì những đứa con này mà nói rằng “đã chết”.
“Từ xa nhìn thấy” là nói nghĩa khi Phật ra đời, chúng sanh tuy nhìn thấy sắc thân Phật ra đời, nhưng vì che chướng bởi kiến hoặc, tư hoặc nên ngăn cách với năm phần pháp thân.[94] Vì không được tự thân mình kính phụng Pháp thân nên nói là “từ xa”. Thấy nghe Phật ra đời đều có những việc cung kính hoan hỷ. Hiện trong các kinh văn nói những việc như Phạm vương thỉnh cầu... là ví như lời [những người con] cầu xin được cứu.
KINH VĂN
“Người cha thấy các con đau khổ như vậy liền y theo các loại sách thuốc mà tìm được những cỏ thuốc tốt có đủ màu sắc đẹp, hương vị thơm ngon, đem giã nát, lược lấy phần nhỏ mịn rồi trộn đều thích hợp, đưa cho các con uống, bảo rằng: ‘Đây là loại thuốc rất tốt, có đủ màu sắc đẹp, hương vị thơm ngon, các con hãy uống vào sẽ nhanh chóng hết khổ, không còn bệnh tật.’
[Phân đoạn thứ hai] từ câu “Người cha thấy các con đau khổ…” là thí dụ cho kinh văn phần trước nói lợi ích từ việc nghe Phật thuyết pháp. Phần này lại có 2 ý.
[Ý thứ nhất] thí dụ việc Phật nhận lời thưa thỉnh, chuyển nhị đế pháp luân. Từ chỗ “bảo rằng” trở đi là thí dụ việc Phật khuyến khích răn dạy. “Các loại sách thuốc” là nói 12 thể loại kinh điển; “cỏ thuốc” tức là tám vạn pháp môn được giảng giải trong giáo pháp. Từ nơi Phật mà có 12 thể loại kinh điển cho đến có Niết-bàn. Đó là tìm ra các loại cỏ thuốc chữa bệnh nhanh hoặc chậm. Từ Phật thuyết ra đủ 12 thể loại kinh điển, đó là tìm ra cỏ thuốc chữa bệnh nhanh. Từ Phật thuyết ra kinh Tu-đa-la, đó là tìm ra cỏ thuốc chữa bệnh chậm. “Đủ màu sắc đẹp” là ví cho giới luật; giới luật ngăn phòng những việc [xấu ác của] thân và miệng, có sự tướng rõ ràng. “Hương vị thơm ngon” thì “hương” là ví cho định, như hương công đức xông ướp tất cả, “vị” là ví cho trí tuệ, có thể giúp đạt được vị của chân lý. Giới, định, tuệ đó tức là Bát chánh đạo; tu tập Bát chánh đạo có thể thấy được tánh Phật.
Lại nữa, “màu sắc” là ví như Bát-nhã, soi chiếu rõ hình sắc của tánh pháp, phân biệt rõ ràng không ngăn ngại; “hương” là ví như giải thoát, có phẩm đức đoạn trừ các mùi hôi hám; “vị” là ví như pháp thân, tức vị của chân lý. Ba pháp [Bát-nhã, Giải thoát, Pháp thân][95] không thuộc về thời gian, không thuộc về không gian, gọi là tạng bí mật. Y theo giáo pháp tu hành thì thể nhập được tạng này. Thuyết dạy về sức Tam-muội Không của ba thừa giống như “giã nát”, Vô tướng ví như “lược lấy phần nhỏ mịn”, Vô tác ví như “trộn đều thích hợp”. Mỗi một tam-muội này[96] đều có đủ giới, định, tuệ.
Lại nữa, pháp quán Không ví như “giã nát”, pháp quán Giả ví như “lược lấy phần nhỏ mịn” và quán Trung ví như “trộn đều thích hợp”. Ba pháp quán này cũng không lìa khỏi giới, định, tuệ. Đem các pháp này dạy cho các chúng sanh với căn cơ tiệm hoặc đốn để họ tu hành tức là “đưa cho uống”.
[Ý thứ hai] từ câu “bảo rằng” cho đến “hãy uống vào” là dùng pháp khuyên dạy; từ “nhanh chóng hết khổ” đến “không còn bệnh tật” là dùng pháp răn nhắc. Đó là dùng cả 2 pháp khuyên dạy và răn nhắc để làm cho chúng sanh chịu uống thuốc Chánh pháp.
KINH VĂN
“Trong số các người con, những người còn tỉnh táo nhìn thấy loại thuốc hay, màu sắc hương vị đều tốt đẹp, liền lập tức uống vào, bệnh khổ dứt hết. Những người khác đã mất lý trí, tuy thấy cha về cũng mừng rỡ thưa hỏi vấn an, cầu xin trị bệnh, nhưng khi đưa thuốc cho thì không chịu uống. Vì sao vậy? Vì chất độc đã ngấm sâu làm mất cả lý trí, nên đối với loại thuốc này có màu sắc hương vị đều tốt lại cho rằng không tốt.
[Phân đoạn thứ ba] từ câu “Trong số các người con, những người còn tỉnh táo…” trở đi là thí dụ phần kinh văn ở trước nói được lợi ích không hư dối. Kinh văn ở trước có 2 ý, thứ nhất là nêu nghĩa không hư dối, thứ hai là giải thích nghĩa không hư dối. Nay ở phần này nói “trong số các người con, những người còn tỉnh táo…” liền uống thuốc vào được khỏi bệnh, tức là thí dụ kinh văn phần trước nói “tất cả đều không hư dối”. Riêng ý giải thích nghĩa không hư dối thì không nói thí dụ.[97]
[Phân đoạn thứ tư] từ câu “Những người khác đã mất lý trí…” trở đi, thí dụ cho kinh văn phần trước nói “không có diệt độ mà thị hiện diệt độ”. Kinh văn phần trước có 2 ý. Thứ nhất, nói “ta nay già yếu sắp chết”[98] là thí dụ kinh văn phần trước nói không có diệt độ mà thị hiện diệt độ. Thứ hai, nói các con “trong tâm dần tỉnh ra” là thí dụ kinh văn phần trước Phật nói diệt độ là có lợi ích. Lại nói nguyên do [người cha] nói mình sẽ chết, là vì các con không chịu uống thuốc, thí dụ cho kinh văn phần trước nói “những người phước mỏng”, “thấy Như Lai sống mãi ở đời không diệt độ, liền khởi tâm kiêu căng phóng túng”.
Kinh văn ở trước trong phần nói về thị hiện diệt độ lại có 2 ý. Thứ nhất là nói vốn thật không diệt độ; thứ hai là nói không có diệt độ, nhưng không nói nguyên do thị hiện diệt độ. Nguyên do ấy cũng nằm trong phần nói lợi ích của việc Phật tuyên bố sẽ diệt độ. Nay trong thí dụ không nêu thí dụ cho ý thứ nhất, nhưng lại nêu rõ nguyên do thị hiện diệt độ, đó là do chúng sanh phước đức mỏng manh, được gặp Phật không chịu tu hành, tức là [giống như những đứa con] không chịu uống thuốc.
KINH VĂN
“Người cha suy nghĩ: ‘Những đứa con này thật đáng thương, vì bị trúng độc nên tâm trí đều điên đảo. Tuy gặp ta cũng vui mừng, xin được trị liệu, nhưng thuốc tốt như thế này lại không chịu uống. Nay ta phải dùng phương tiện để khiến cho chúng nó chịu uống thuốc này.’ Liền bảo các con: ‘Các con nên biết, ta nay già yếu sắp chết. Đây là loại thuốc hay, ta để lại chỗ này, các con có thể lấy uống, chớ lo không khỏi bệnh.’ Nói như vậy rồi bỏ đi sang nước khác, sai người về báo: ‘Cha các người đã chết.’
[Ý thứ nhất] từ câu [“Người cha suy nghĩ… ]…Nay ta phải dùng phương tiện…” trở đi nêu việc người cha nói mình sắp chết, là thí dụ cho [kinh văn phần trước] không có diệt độ mà nói là diệt độ.
Phần này nêu việc người cha già yếu, lại chia làm 2 tiểu ý.
Tiểu ý thứ nhất nói người cha có ý định bỏ đi, thí dụ cho kinh văn phần trước nói Phật thường trụ có tổn hại, nói Phật diệt độ có lợi ích.
Tiểu ý thứ hai từ câu “Liền bảo các con…” trở đi, nói việc sắp chết, là thí dụ cho việc Phật thị hiện diệt độ, việc hóa độ sắp hoàn tất.
Nói “già yếu sắp chết” tức là nói sắp nhập Niết-bàn. Phật lưu lại kinh điển giáo pháp, cho nên nói “Đây là loại thuốc hay, ta để lại chỗ này”. Lại “bỏ đi sang nước khác”, tức là nói ở phương này thị hiện diệt độ, ở phương khác thị hiện đản sanh.
Kinh văn phần trước nói “phát lời thệ nguyện, ở nơi cõi thế giới khác giảng rộng kinh này” tức là ý nghĩa này. “Sai người về báo”, tức là sứ giả, ví như đức Phật lúc nhập Niết-bàn dùng âm thanh lớn báo cho khắp nơi đều biết, đó là sứ giả; hoặc dùng thần thông, hoặc dùng xá-lợi, hoặc dùng kinh điển giáo pháp… đều là sứ giả.
Nay dùng hàng Bồ Tát tứ y[99] để nói với chúng sanh rằng: “Phật đã diệt độ, chỉ còn lưu lại giáo pháp này, nay chúng ta tuyên thuyết rộng truyền, mọi người nên thọ nhận thực hành theo.” Chúng sanh đời sau nếu không có bốn hạng [đệ tử] nương theo [giáo pháp] này để truyền thuật lại kinh điển giáo pháp, lẽ nào có thể tự biết rằng Phật đã diệt độ sao? Cho nên dùng bốn hạng đệ tử nương tựa [giáo pháp] làm sứ giả.
KINH VĂN
“Lúc bấy giờ, những người con nghe tin cha đã chết, trong lòng hết sức buồn khổ, tự nghĩ rằng: ‘Nếu cha ta còn sống, thương yêu chúng ta, có thể được người cứu giúp. Nay người đã bỏ chúng ta đi xa, chết nơi xứ khác.’ Họ tự nghĩ mình giờ đây côi cút không nơi nương tựa, nên thường đau buồn xúc động, trong tâm dần tỉnh ra, thấy biết loại thuốc [cha để lại] có màu sắc hương vị tốt đẹp liền lấy uống vào, bệnh khổ do thuốc độc liền được khỏi.
[Ý thứ hai] từ câu “Lúc bấy giờ, những người con…” trở đi, nói việc những người con “trong tâm dần tỉnh ra”, thí dụ cho lợi ích của việc Phật thị hiện diệt độ. Kinh văn phần trước lại chia làm 2 ý.
Thứ nhất là nêu sự tổn hại và lợi ích; thứ hai là giải thích ý nghĩa tổn hại và lợi ích. Nay phần này chỉ nêu thí dụ việc được lợi ích. Trong phần này, từ câu “tự nghĩ mình giờ đây côi cút” trở đi nêu nghĩa sau khi Phật diệt độ [chúng sanh] được lợi ích, như những người về sau được ngài Ưu-ba-cấp-đa[100] giáo hóa...
Phần này lại có 2 tiểu ý. Thứ nhất là lợi ích của sự thị hiện diệt độ; thứ hai là căn cơ cảm ứng trong đời tương lai. Vì sau khi Phật diệt độ, chúng sanh tỉnh ngộ chịu “uống thuốc” tu hành, lấy đó làm nhân duyên có thể chiêu cảm được sự ứng hóa trong tương lai.
Như kinh Di giáo nói rằng: “Người chưa được hóa độ thì tạo ra nhân duyên để [sau này] được hóa độ.” Lại cũng có trường hợp trong hiện tại chiêu cảm được thấy Phật, như trong Phổ Hiền Quán nói rằng: “Tinh tấn khó nhọc đến mức được thấy phân thân của đức Thích-ca, Phật Đa Bảo ở phương Đông, Phật Thiện Đức cùng với bảy vị Phật Thế Tôn.
KINH VĂN
“Người cha nghe tin các con đã khỏi bệnh liền quay về, tất cả các con đều được gặp lại cha.”
[Đoạn thứ ba] từ câu “Người cha nghe tin các con đã khỏi bệnh…” trở đi là nói sức uy mãnh làm lợi ích chúng sanh trong đời vị lai. “Người cha nghe tin các con đã khỏi bệnh” tức là căn cơ [phát khởi], “tất cả các con đều được gặp lại cha” tức là khởi sinh việc ứng hóa của vị lai, khi ấy mới ban cho lợi ích từ âm thanh [thuyết pháp] và hình tướng [thị hiện]. Những điều này y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Này thiện nam tử, các ông nghĩ sao? Có ai có thể nói vị thầy thuốc ấy phạm tội dối gạt chăng?”
“Bạch Thế Tôn! Không thể như vậy.”
[Tổng đoạn thứ hai] từ câu “Này thiện nam tử, các ông nghĩ sao…” trở đi [nêu việc trị bệnh giúp các con được lợi ích chân thật] nêu lại thí dụ không hư dối, làm sáng tỏ lợi ích ba đời là chân thật.
KINH VĂN
Đức Phật dạy: “Ta cũng giống như vậy, tuy thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp, nhưng vì chúng sanh nên dùng sức phương tiện mà nói rằng ta sẽ diệt độ. Cũng không ai có thể theo pháp mà nói ta có lỗi dối gạt.”
[Phần thứ hai] từ câu “Đức Phật dạy: Ta cũng giống như vậy” trở đi nêu nghĩa tương hợp với thí dụ.
“Thành Phật đến nay đã vô lượng kiếp” là tương hợp với đời quá khứ.
“Dùng sức phương tiện mà nói rằng ta sẽ diệt độ…” là tương hợp với đời hiện tại.
Kinh văn lược bớt, không nói tương hợp với đời vị lai.
Câu “cũng không ai có thể… …nói ta có lỗi dối gạt” là tương hợp với việc làm lợi ích chúng sanh không hư dối.
KINH VĂN
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn tuyên thuyết lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
Ta thành Phật đến nay,
Đã trải qua số kiếp,
Vô lượng ngàn muôn ức,
Cho đến a-tăng-kỳ,
Thường thuyết pháp giáo hóa,
Vô số ức chúng sanh,
Dẫn dắt vào đạo Phật.
Vô số kiếp đến nay,
Vì hóa độ chúng sanh,
Phương tiện hiện Niết-bàn,
Nhưng thật không diệt độ,
Thường ở đây thuyết pháp.
Ta thường trụ cõi này,
Dùng các sức thần thông,
Khiến chúng sanh điên đảo,
Gần Phật nhưng không thấy.
Phần kệ tụng có 25 khổ rưỡi, tụng lại hai phần nói pháp và thí dụ trong kinh văn trường hàng ở trước, [chia ra hai tổng đoạn]. Tổng đoạn thứ nhất có 20 khổ rưỡi kệ, tụng lại phần nói pháp. Tổng đoạn thứ hai có 5 khổ kệ tụng lại phần thí dụ.
Trong phần nói pháp, kinh văn trường hàng có 2 tổng phần, tổng đoạn thứ nhất của kệ tụng cũng chia thành hai đoạn. Đoạn thứ nhất 19 khổ rưỡi kệ, tụng về sự lợi ích chúng sanh trong ba đời. Đoạn thứ hai một khổ kệ, tụng ý nghĩa tất cả đều chân thật không hư dối.
Đoạn thứ nhất có 3 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất có 4 khổ kệ, tụng về lợi ích chúng sanh trong đời quá khứ, lại chia làm 3 phân đoạn.
Phân đoạn thứ nhất có một khổ kệ, tụng lại ý nghĩa kinh văn trường hàng nói Phật thành đạo đã lâu.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Thường thuyết pháp giáo hóa” trở đi, một khổ kệ, tụng lại nghĩa kinh văn phần trước nói trong khoảng thời gian ở giữa vẫn làm lợi ích chúng sanh.
Phân đoạn thứ ba từ câu “Vì hóa độ chúng sanh” trở đi, 2 khổ kệ, tụng lại nghĩa kinh văn phần trước nói về trụ xứ của Phật.
KINH VĂN
Họ thấy Phật diệt độ,
Liền cúng dường xá-lợi;
Đều lưu luyến tiếc nhớ,
Nên sinh lòng khát ngưỡng.
Chúng sanh đã tin phục,
Tâm chân thật, nhu hòa,
Một lòng muốn gặp Phật,
Không tiếc thân mạng mình.
Khi ấy Phật, chư tăng,
Cùng hiện trên núi Thứu.
Ta bảo cùng chúng sanh:
“Phật thường trụ bất diệt,
Nhưng dùng sức phương tiện,
Hóa hiện: diệt, không diệt.
Cõi khác có chúng sanh,
Cung kính, tin, ưa thích,
Ta lại ở nơi ấy,
Vì họ thuyết Phật pháp.
Các ông không nghe biết,
Cho rằng ta diệt độ.
Tiểu đoạn thứ hai có 5 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa hiện tại, chia thành 2 phân đoạn [giống như] kinh văn phần trước chia hai phần.
Phân đoạn thứ nhất có 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại nghĩa Phật không sinh nhưng thị hiện sinh ra.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Ta bảo cùng chúng sanh” trở đi có 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại nghĩa Phật không diệt độ nhưng thị hiện diệt độ.
KINH VĂN
Phật nhìn thấy chúng sanh,
Đắm chìm trong khổ não,
Cho nên không hiện thân,
Để họ sinh khát ngưỡng.
Chỉ khi họ luyến mộ,
Mới ra đời thuyết pháp.
Sức thần thông như vậy,
Qua a-tăng-kỳ kiếp,
Phật thường ở núi Thứu,
Và những nơi chốn khác.
Chúng sanh thời kiếp tận,
Bị lửa dữ thiêu đốt,
Nơi ta ở an ổn,
Thường đông đảo trời, người.
Có vườn rừng, lầu gác,
Mọi thứ báu trang nghiêm,
Cây báu nhiều hoa trái,
Chúng sanh vui dạo chơi,
Chư thiên đánh trống trời,
Thường dùng nhạc điệu hay;
Mưa hoa mạn-đà-la,
Cúng dường Phật, đại chúng.
Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Phật nhìn thấy chúng sanh” trở đi, gồm 10 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa về tương lai trong kinh văn phần trước. Phần trước đã nói bốn chữ “thường trụ bất diệt”, phần kệ tụng này nói mở rộng hơn, chia làm 4 phân đoạn.
Phân đoạn thứ nhất từ câu “Phật nhìn thấy chúng sanh” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu rõ cơ duyên ứng hợp trong tương lai.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Sức thần thông như vậy” trở đi, gồm 4 khổ kệ, tụng lại nghĩa “thường trụ bất diệt” ở kinh văn phần trước. “Phật thường ở núi Thứu” là nói Thật báo độ.[101] “Và những nơi chốn khác” là nói Phương tiện hữu dư độ,[102] tức là ý nghĩa “cõi nước khác” được nói ở kinh văn phần trước. “Thường đông đảo trời, người”, còn ở giai vị tam thập tam tâm là người, hàng Thập địa là trời. “Đánh trống trời” là nói [các kinh] không người thưa hỏi mà Phật tự thuyết ra. “Mưa hoa mạn-đà-la” là nói các giai vị hiền thánh.
KINH VĂN
Tịnh độ Phật thường còn,
Chúng sanh thấy cháy hết,
Những buồn, sợ, khổ não,
Cứ như thế tràn đầy.
Những chúng sanh nhiều tội,
Vì nhân duyên nghiệp ác,
Nên qua vô số kiếp,
Không nghe biết Tam bảo.
Những người tu công đức,
Tâm chân thật, nhu hòa,
Đều thấy được thân Phật,
Vẫn ở đây thuyết pháp.
Có lúc vì chúng này,
Nói: ‘Phật thọ vô lượng.’
Còn người lâu mới gặp,
Lại nói: ‘Phật khó gặp.’
Trí lực Phật như vậy,
Ánh tuệ chiếu vô cùng,
Tuổi thọ vô số kiếp,
Từ lâu tu tập thành.
Các ông người có trí,
Chớ nghi nan việc này.
Hãy dứt nghi mãi mãi,
Lời Phật không hư dối.
Phân đoạn thứ ba từ câu “Tịnh độ Phật thường còn” trở đi, gồm 2 khổ kệ, nói rõ nhân duyên [chúng sanh] không thấy Phật.
Phân đoạn thứ tư từ câu “những người tu công đức” trở đi, gồm 3 khổ kệ, nói rõ nhân duyên được thấy Phật.
Đoạn thứ hai từ câu “Các ông người có trí” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại về sự lợi ích không hư dối đã nói trong kinh văn trường hàng ở trước.
KINH VĂN
Như thầy thuốc phương tiện,
Vì muốn trị bệnh con,
Sống, nhưng nói đã chết,
Không thể cho là dối.
Ta là cha thế gian,
Cứu chúng sanh bệnh khổ,
Tổng đoạn thứ hai gồm 5 khổ kệ, tụng lại phần nói thí dụ trong kinh văn trường hàng, chia làm 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất 1 khổ kệ, tụng khai mở thí dụ, chia làm 3 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất gồm 1 câu đầu tiên, tụng nghĩa quá khứ.
Tiểu đoạn thứ hai gồm 2 câu tụng nghĩa hiện tại, không tụng về nghĩa tương lai.
Tiểu đoạn thứ ba là câu “Không thể cho là dối”, tụng lại nghĩa không hư dối.
Đoạn thứ hai từ câu “Ta là cha thế gian” trở đi gồm 4 khổ kệ, tụng lại nghĩa tương hợp với thí dụ, chia làm 3 tiểu đoạn. Kinh văn trường hàng ở trước chỉ nói nghĩa tương hợp với bản nguyên xa xưa và trung gian khoảng giữa, không nói nghĩa tương hợp với tương lai.
Tiểu đoạn thứ nhất trong kệ tụng này có nửa khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp với quá khứ.
KINH VĂN
Vì phàm phu điên đảo,
Thường trụ, nói tịch diệt.
Vì nếu thường gặp Phật,
Chúng kiêu mạn, phóng túng,
Buông thả, đắm năm dục,
Đọa vào các đường ác.
Phật rõ biết chúng sanh,
Tu hành, không tu hành,
Chỗ có thể hóa độ,
Liền vì họ thuyết pháp.
Ta vẫn thường tự nghĩ,
Làm sao giúp chúng sanh,
Thể nhập trí Vô thượng,
Mau thành tựu thân Phật.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Vì phàm phu điên đảo” trở đi gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng nghĩa tương hợp với hiện tại.
Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Ta vẫn thường tự nghĩ” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng tương hợp với nghĩa không hư dối. Chỉ bày trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa; chỉ bày trừ bỏ [hình tích] gần đây, hiển bày [bản nguyên] xa xưa, đều là vì muốn cho chúng sanh mau chóng thể nhập Phật đạo. Những việc như vậy đều không phải hư dối.
____________________
CHÚ THÍCH
[1] Nguyên tác dùng Duệ sư (叡師), tức chỉ ngài Tăng Duệ (僧叡), cao tăng vào thời Đông Tấn nhưng không rõ năm sinh năm mất. Ngài xuất gia năm 18 tuổi, năm 20 tuổi đã thông thuộc kinh luận, đến năm 24 tuổi đã là giảng sư nổi tiếng nhiều nơi. Khi ngài Cưu-ma-la-thập đến Trường An vào năm 401, ngài theo học và trở thành một trong các đệ tử lớn, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phiên dịch kinh luận.
[2] Nguyên tác nói “普賢顯其無成 – Phổ Hiền hiển kỳ vô thành”, Văn cú ký giải thích: “普賢居菩薩極位尚名為賢,可表伽耶成亦非成。 - Phổ Hiền cư Bồ Tát cực vị thượng danh vi hiền khả biểu Già-da thành diệc phi thành.” (Phổ Hiền ở địa vị cùng tột của hàng Bồ Tát vẫn gọi là hiền, có thể biểu thị việc thành đạo ở Già-da cũng là không phải thành đạo.)
[3] Văn Cú nói “Đạo Tràng Quán” (道場觀), có vẻ như tên một bộ sách, nhưng theo Diệu pháp Liên hoa kinh huyền nghĩa (妙法蓮華經玄義), quyển 10, thì đây là tên một vị pháp sư. (三者定林柔次二師, 及道場觀法師) (ĐCT, T33, 1716, tr.801b, d.3-4) Chúng tôi chưa thể xác định chắc chắn.
[4] Nguyên tác dùng Già-da (伽耶) để chỉ việc thành đạo nơi Bồ-đề Đạo tràng. Cách dùng này tiếp tục trong các đoạn sau. Nếu hiểu Già-da theo nghĩa chỉ nơi chốn thì các lập luận nêu ra ở đây đều không hợp lý.
[5] Nguyên tác dùng “鷸蚌相扼 - duật bạng tương ách” (trai cò giữ nhau), cũng thường nói “duật bạng tương tranh” (鷸蚌相爭), nói về câu chuyện giữa con cò và con trai trên bãi cát. Trai đang mở vỏ, cò mổ vào để ăn thịt trai; trai khép vỏ giữ chặt mỏ cò. Cò và trai giữ nhau không con nào chịu bỏ cuộc, rốt cuộc có người đi ngang qua liền bắt được cả hai. Lập luận ở đây hàm ý rằng hai bên luận giải “thường” và “vô thường” đều không sai nhưng nếu cố chấp một nghĩa thì chỉ làm khó cho nhau, vì bên này đúng thì bên kia sai, không có giải pháp dung hòa.
[6] Nguyên tác là “大經超前九劫 - Đại kinh siêu tiền cửu kiếp” (kinh Đại Niết-bàn nói vượt qua 9 kiếp sớm hơn). Có thể Văn Cú đã nhầm lẫn, vì trong kinh Đại Bát Niết-bàn nói là 12 kiếp. Nguyên văn kinh trong quyển 14 là: “如我往昔為半偈故捨棄此身, 以是因緣便得超越足十二劫在彌勒前成阿耨多羅三藐三菩提。 - Như ngã vãng tích vị bán kệ cố xả khí thử thân, dĩ thị nhân duyên tiện đắc siêu việt túc thập nhị kiếp, tại Di-lặc tiền thành A-nậu-da-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.” (Như ta thuở ấy vì nửa bài kệ mà xả bỏ thân này. Do nhân duyên ấy liền vượt qua được đủ mười hai kiếp, thành Phật trước Bồ Tát Di-lặc.) (ĐCT, T12, 374, tr.451a, d.28- tr.451b, d.1. – Bản Việt dịch của Nguyễn Minh Tiến, kinh Đại Bát Niết-bàn, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2009)
[7] Nguyên văn kinh: “是我方便,諸佛亦然。- Thị ngã phương tiện, chư Phật diệc nhiên.” Đây là 2 câu kệ nằm gần cuối phẩm Thí dụ cỏ thuốc, thứ năm.
[8] Nguyên văn kinh: “願我於未來… …坐於道場時,說壽亦如是。 - Nguyện ngã ư vị lai… … tọa ư đạo trường thời, thuyết thọ diệc như thị.” Đây là kệ tụng trong phẩm Phân biệt công đức.
[9] Nguyên tác là “諸師不可師 - chư sư bất khả sư” (các thầy không thể làm thầy), hàm ý nói không còn ràng buộc, chịu lệ thuộc vào các vị thầy. Trong ngữ cảnh đang bàn đến những cách giải thích có sai lệch của các vị thầy nên hiểu là không còn bị dẫn dắt theo cách hiểu của họ.
[10] Nguyên tác dùng “糟糠 - tao khang” (bã rượu, gạo tấm), chỉ những thứ vụn vặt, không có giá trị.
[11] Nguyên tác dùng “問橋 - vấn kiều” (hỏi cầu), chỉ việc muốn tìm biết về phương tiện mà quên đi mục tiêu, cứu cánh.
[12] Ở đây dẫn ví dụ mô tả về số kiếp lâu xa được đức Phật đề cập ở đầu phẩm Tuổi thọ của Như Lai.
[13] Ở đây trích dẫn kệ tụng trong phẩm Đà-la-ni, thứ hai mươi sáu.
[14] Nguyên tác dùng “普賢觀 - Phổ Hiền quán”, tức chỉ đến kinh Phật thuyết Quán Phổ Hiền Bồ Tát hành pháp (佛說觀普賢菩薩行法經). Đoạn trích dẫn này nêu đủ về các ba-la-mật Thường, Ngã, Tịnh, Lạc của Phật để nói về nghĩa Như Lai thường tại: “常波羅蜜所攝成處, 我波羅蜜所安立處, 淨波羅蜜滅有相處, 樂波羅蜜不住身心相處。- Thường ba-la-mật sở nhiếp hành xứ, Ngã ba-la-mật sở an lập xứ, Tịnh ba-la-mật diệt hữu tướng xứ, Lạc ba-la-mật bất trụ thân tâm tướng xứ.” (ĐCT, T9, 277, tr.392c, d.17-19)
[15] Ở đây nói về tam đức (三德), tức Pháp thân đức (法身德), Bát-nhã đức (般若德) và Giải thoát đức (解脫德).
[16] Nguyên tác dùng “二佛三佛 - nhị Phật, tam Phật” có thể được hiểu theo nhiều nghĩa, nhưng theo ý nghĩa được giảng giải trong phần này thì Nhị Phật chỉ Chân thân, tức Pháp thân Phật và Ứng thân Phật; Tam Phật chỉ Pháp thân Phật, Ứng thân Phật và Báo thân Phật. Trong thực tế, đây là những biểu hiện khác nhau của một vị Phật.
[17] Bản Phật (本佛): tức là Phật được nhận hiểu theo nghĩa bản nguyên, từ ban sơ; Tích Phật (迹佛): tức là Phật được hiểu theo nghĩa thị hiện hình tích để tất cả chúng sanh được nhìn thấy.
[18] Nguyên tác dùng Thành luận, tức Thành thật luận (成實論). Đoạn trích dẫn là: “如來者乘如實道來成正覺故曰如來。 - Như Lai giả, thừa như thật đạo lai thành Chánh giác, cố viết Như Lai.” (ĐCT, T32, 1646, tr.242a, d.25-26)
[19] Tám tướng thành đạo hay tám tướng thành Phật, tức là 8 tướng thị hiện của một vị Phật ra đời, bao gồm: giáng thần, nhập thai, đản sinh, xuất gia, hàng ma, thành đạo, thuyết pháp, nhập Niết-bàn.
[20] Tỳ-lô-giá-na (H. 毗盧遮那, S. Vairocana), Hán dịch là Biến nhất thiết xứ (遍一切處).
[21] Thích-ca-văn (釋迦文), một cách phiên âm khác từ danh hiệu Phạn ngữ Śākyamuni thay vì thông dụng hơn là Thích-ca Mâu-ni (釋迦牟尼). Văn Cú nói “此翻度沃焦 - Thử phiên Độ ốc tiêu” nhưng thật ra đây không phải danh xưng được Hán dịch từ tên Phạn ngữ, mà là một biệt hiệu của Phật có ý nghĩa được nói đến trong kinh Hoa nghiêm. Vì giữa biển có tảng đá nóng cháy (焦石 - tiêu thạch), thu hút tất cả các dòng nước rót vào (沃 - ốc) đều khô kiệt mà không làm đá hết nóng; chúng sanh cũng giống như tảng đá nóng đó, thu hút tất cả năm món dục thường xuyên rót vào mà vẫn không bao giờ thỏa mãn. Chỉ đức Phật mới có thể vượt qua (度 - độ) được sức hút của năm món dục như vậy nên gọi ngài là Độ ốc tiêu (度沃焦).
[22] Phần trích dẫn này Văn Cú nói “大經云 - Đại kinh vân” (Kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng), nhưng thật ra chỉ dẫn ý kinh, không phải nguyên văn. Nguyên văn đoạn trích dẫn này là: “解脫之法亦非涅槃, 如來之身亦非涅槃, 摩訶般若亦非涅槃, 三法各異亦非涅槃; 我今安住如是三法, 為眾生故名入涅槃。 - Giải thoát chi pháp diệc phi Niết-bàn, Như Lai chi thân diệc phi Niết-bàn, Ma-ha Bát-nhã diệc phi Niết-bàn, tam pháp các dị diệc phi Niết-bàn; ngã kim an trụ như thị tam pháp, vị chúng sanh cố danh nhập Niết-bàn.” (ĐCT, T12, 374, tr.376c, d.14-17)
[23] Văn Cú trích dẫn: “或示己身己事, 或示他身他事。- Hoặc thị kỷ thân kỷ sự, hoặc thị tha thân tha sự”, tuy đúng ý nghĩa nhưng không hoàn toàn khớp theo kinh văn. Kinh văn đoạn này là: “或示己身, 或示他身,或示己事, 或示他事 - hoặc thị kỷ thân, hoặc thị tha thân; hoặc thị kỷ sự, hoặc thị tha sự”. Chúng tôi đã điều chỉnh theo kinh văn khi chuyển dịch.
[24] Văn Cú dùng “縱橫 - tung hoành” (dọc ngang) để nêu nghĩa về thời gian và không gian, cho nên hoành (ngang) được hiểu là trong cùng một thời gian, tung (dọc) được hiểu là tuần tự theo thời gian, có trước có sau.
[25] Nguyên văn kinh: “非實非虛,非如非異 - phi thật phi hư, phi như phi dị”. Văn Cú trích dẫn đúng nhưng đảo ngược thứ tự, chúng tôi điều chỉnh theo kinh văn.
[26] Văn Cú trích dẫn đúng 4 câu kệ này nhưng đưa câu cuối lên thành câu thứ hai. Chúng tôi đã điều chỉnh theo kinh văn.
[27] Ở đây dùng nghĩa “四句 - tứ cú” (bốn câu) để nói, tức là có tất cả 4 trường hợp về tuổi thọ của Như Lai: 1. Có hạn lượng; 2. Không hạn lượng; 3. Vừa có hạn lượng, vừa không hạn lượng; 4. Chẳng phải có hạn lượng, chẳng phải không hạn lượng. Cách hiểu “tứ cú” này là một phương thức chung được dùng trong mọi trường hợp biện luận, vì không thể có trường hợp thứ năm. Ở đây như đã giải thích thì trường hợp thứ nhất (có hạn lượng) thuộc về phàm phu; ba trường hợp sau đều thuộc về bậc thánh, tức là tương hợp với tuổi thọ của Như Lai.
[28] Nguyên tác là “常等四句 - thường đẳng tứ cú”, tức là vận dụng nghĩa “tứ cú” như trên vào nghĩa thường, sẽ có 4 trường hợp: 1. Thường; 2. Vô thường; 3. Vừa thường vừa vô thường; 4. Chẳng phải thường, chẳng phải vô thường.
[29] Tức là trong “tứ cú” nói trên, phàm phu rơi vào trường hợp vô thường, ba trường hợp còn lại thuộc về ba thân Phật.
[30] Cách so sánh trong đoạn này dựa vào thực tế thời gian chiếu sáng ban ngày vào mùa hạ là dài nhất trong năm và ngày mùa đông là ngắn nhất.
[31] Nguyên tác dùng “tứ trụ - 四住” tức tứ trụ địa (四住地), là bốn yếu tố căn bản làm khởi sinh tất cả phiền não, đã giải thích chi tiết ở trước.
[32] Theo Văn Cú ký thì chỗ này hàm ý bác bỏ ý kiến của Tăng Triệu. Văn Cú ký nói “正斥肇師 - chính xích Triệu sư” (chính là bác bỏ Triệu sư).
[33] Nguyên tác dùng chữ “真 - chân”, chỉ chân đế, theo nghĩa rốt ráo, tuyệt đối.
[34] Nguyên tác dùng chữ “俗 - tục”, chỉ tục đế, theo nghĩa tương đối, tùy thuận.
[35] Nguyên tác dùng “下地 - hạ địa” để chỉ hàng Bồ Tát ở giai vị thấp nhất trong Thập địa, tức là sơ địa.
[36] Văn Cú nói “忽之如草 - hốt chi như thảo” rất khó hiểu. Đoạn này trích ý từ kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 2, trong đó nói “不復愛重視之如草 - bất phục ái trọng thị chi như thảo” (không còn yêu quý, xem như cỏ rác). ĐCT, T12, 375, tr.613b, d.24-26.
[37] Văn Cú nói “法性智應 - pháp tánh trí ứng”. Văn Cú ký giải thích: “法性法身, 智即報身, 應即應身 - pháp tánh Pháp thân, trí tức Báo thân, ứng tức Ứng thân”.
[38] Văn Cú không phân đoạn cụ thể mà chỉ phân biệt 3 ý, có lẽ vì mạch văn đã rõ ràng. Thứ nhất, nói về pháp sâu kín mà đại chúng không hiểu được, tứ là nêu pháp mê (出所迷法 - xuất sở mê pháp); thứ hai kể ra “tất cả chư thiên, loài người...” tức là nói chúng mê pháp (出能迷眾 - xuất năng mê chúng); thứ ba, “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hiện nay...” tức là nói rõ sự mê lầm đã từ xa xưa (出迷遠之謂 - xuất viễn mê chi vị), đó là việc cho rằng Phật chỉ mới vừa thành đạo.
[39] Tức là chỉ việc “cho rằng Phật chỉ vừa mới có được ba thân từ khi thành đạo dưới cội cây Bồ-đề”.
[40] Kinh văn nói: “是諸世界若著微塵及不著者 - Thị chư thế giới nhược trước vi trần cập bất trước giả…” Vì kinh văn đang nói đến các thế giới về phương đông nên có thể ngầm hiểu được, đồng thời cũng nhắc lại các thế giới mà người kia đi qua có làm rơi một hạt bụi lên đó gọi là “trước vi trần” (dính bụi), và tính luôn cả những thế giới mà người ấy không làm rơi bụi, gọi là “bất trước vi trần” (không dính bụi), nghĩa là không đi qua. Chữ “及 - cập” có nghĩa là “tính luôn, tính cả vào” chứ không có nghĩa thay thế như chữ “或 - hoặc”, như vậy để thấy rằng số lượng lớn hơn rất nhiều. Các bản dịch cũ đi sát theo nghĩa đen và dịch là “hoặc dính vi trần hoặc chẳng dính”, không diễn tả đúng ý nghĩa kinh văn. Bản Anh ngữ của H. Kern dịch từ Phạn ngữ diễn đạt ý này là “those worlds where that man deposits those atoms of dust and where he does not” (những thế giới mà người kia có làm rơi bụi và những nơi ông ấy không làm rơi bụi).
[41] Căn cơ tiệm và đốn: tiệm căn nghĩa là căn cơ có khả năng chứng ngộ qua sự tu tập dần dần, từng bước từ thấp lên cao; đốn căn là căn cơ có khả năng trực ngộ, đốn ngộ tức thời, không cần phải trải qua sự tu tập dần dần.
[42] Hoa báo: quả báo có ngay trong đời hiện tại, hoặc đến nhanh hơn các quả báo về sau, ví như hoa có trước rồi sau mới có quả. Cùng một việc thiện sẽ chiêu cảm hoa báo trước, rồi về sau tiếp tục được quả báo.
[43] 5 căn bao gồm: tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn và tuệ căn.
[44] Nguyên tác Văn Cú gọi là “華嚴十號中 - Hoa nghiêm Thập hiệu trung”, nhưng nội dung được đề cập là trong phẩm Danh hiệu Như Lai (如來名號品). ĐCT, T10, 279, tr.57c.
[45] Văn Cú nói “例三默 - lệ tam mặc” (cũng ví như 3 lần im lặng) dường như không phù hợp với ý nghĩa trong ngữ cảnh. Văn Cú ký không giải thích nhưng khi chép lại đoạn này lại viết là “例三點 - lệ tam điểm” (cũng ví như cụm 3 dấu chấm), có nghĩa phù hợp hơn, như 3 dấu chấm nếu nhìn riêng rẽ thì mỗi chấm đều nhỏ, kết hợp thành một cụm thì là lớn.
[46] Bốn lợi ích: tức là tương ứng với 4 tất đàn: Thế giới tất đàn giúp chúng sanh hoan hỷ (vì xứng hợp căn cơ); vị nhân tất đàn giúp chúng sanh tăng trưởng căn lành; đối trị tất đàn giúp chúng sanh phá trừ tà kiến; đệ nhất nghĩa tất đàn giúp chúng sanh chứng nhập chân lý.
[47] Tức là nói pháp Tam-muội Sư tử phấn chấn (師子奮迅三昧). Đại trí độ luận có nói đến pháp tam-muội này: “菩薩依八背捨、九次第定,入師子奮迅三昧。 - Bồ Tát y bát bội xả, cửu thứ đệ định, nhập sư tử phấn chấn tam-muội.” Xem mô tả đầy đủ trong ĐCT, T25, 1509, tr.628a, d.20-26.
[48] Bốn loại ma (四魔 - tứ ma), hay tứ chủng ma. Bao gồm: ma cõi trời (天魔 - thiên ma), tức Tha hóa tự tại thiên tử ma, cũng tức là Ma vương Ba-tuần; ma năm ấm (五陰魔 - ngũ ấm ma), tức là sự ràng buộc, phụ thuộc, bám chấp vào năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức); ma chết (死魔 - tử ma), là cái chết luôn chực chờ cướp mất sinh mạng của chúng sanh, gián đoạn sự tu tập; và ma phiền não (煩悩魔 - phiền não ma), tức các phiền não như tham lam, sân hận, si mê... quấy nhiễu tâm an định, thôi thúc chúng sanh làm các việc xấu ác.
[49] Mười nghiệp lành (十善 - thập thiện): bao gồm ba nghiệp của thân là không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm; bốn nghiệp của khẩu là không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói độc ác, không nói thêu dệt vô nghĩa; ba nghiệp của ý là không tham lam, không sân hận, không si mê.
[50] Văn cú trích dẫn kinh văn và kệ tụng này từ Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh (大方廣佛華嚴經), quyển 23 (bản 60 quyển), nhưng chỉ trích đại lược ý kinh, không dẫn nguyên văn. Xem đầy đủ tại ĐCT, T9, 278, tr.543b, d.19-29.
[51] Tức chỉ Đại sư Nam Nhạc Huệ Tư (南嶽慧思), thầy của ngài Trí Khải.
[52] Văn Cú dùng “近說 - cận thuyết” để chỉ những giáo pháp Phật dạy thuộc Tích môn, dựa vào sự thị hiện thành đạo gần đây; khác với “viễn thuyết” là nói Phật đã thành đạo từ rất lâu xa trong quá khứ. Do nghĩa đó nên không xem những người ưa thích pháp này là thuộc Tiểu thừa.
[53] Nguyên tác là “三乘灰斷 - tam thừa hôi đoạn”, tức là chỉ khuynh hướng “灰身滅智 - hôi thân diệt trí” của hàng Tam thừa, cầu đoạn diệt khi chưa đạt đến giải thoát rốt ráo.
[54] Nhân môn (因門) chỉ các pháp môn tu tập của hàng Bồ Tát tạo nhân giải thoát; quả môn (果門) chỉ các pháp môn nội chứng của chư Phật, là cảnh giới mà hàng Bồ Tát không thể nhận biết được.
[55] Tức 34 tâm cuối cùng của vị Bồ Tát, khởi sinh vào sát-na trước khi thành đạo, đã có giải thích ở phần trước, bao gồm 8 nhẫn, 8 trí, 9 vô ngại và 9 giải thoát.
[56] Nguyên tác là “金剛後心 - kim cương hậu tâm”, chỉ tâm cuối cùng của vị Bồ Tát khi thành Phật, gồm 3 giai đoạn; nhập kim cương định vẫn còn là chúng sanh, xuất kim cương định là thành chánh giác. Giai đoạn trụ định viên mãn, ngay trước khi xuất định gọi là kim cương hậu tâm.
[57] Bốn thánh đế có tạo tác (有作四諦 - hữu tác tứ đế), tức là bốn thánh đế được thành tựu nhờ sự tu tập có tác ý.
[58] Ba đế (tam đế): tức giả đế, không đế và trung đế, chỉ ba sự nhận hiểu đúng thật nhờ tu tập các pháp quán giả, quán không và quán trung đạo.
[59] Nguyên tác dùng “壞草庵 - hoại thảo am” (phá bỏ am cỏ) để chỉ việc không còn cần đến những phương tiện tu tập ban đầu thuộc về hình thức, vì đã vượt qua sự bám chấp nơi hình tướng.
[60] Nguyên tác là “六句 - lục cú” (sáu câu). Văn Cú Ký giải thích: “言六句者, 初如來去, 二亦無在世去, 三非實非虛, 四非如非異, 五不如三界去, 六如斯去 - Ngôn lục cú giả, sơ Như Lai khứ, nhị diệc vô tại thế khứ, tam phi thật phi hư, tứ phi như phi dị, ngũ bất như tam giới khứ, lục như tư khứ...” (Nói 6 câu đó là: Thứ nhất, từ “Như Lai…” trở đi; thứ hai, từ “cũng không có việc ở đời…” trở đi; thứ ba, “không phải chân thật cũng không phải hư dối”; thứ tư, “không phải như vậy cũng không phải khác biệt”; thứ năm, từ “không giống như chúng sanh trong ba cõi…” trở đi; thứ sáu, từ “Những việc như vậy…” trở đi.)
[61] Nguyên tác dùng “二死 - nhị tử”, chỉ 2 cách chết trong 2 loại sinh tử là phần đoạn sinh tử và biến dịch sinh tử. Phần đoạn tử là cách chết khi chúng sanh chấm dứt một đời sống, thân xác hủy hoại, chuyển sang đời sống mới với thân xác mới, cũng gọi là hữu vi sinh tử. Biến dịch tử là cái chết khi chúng sanh chuyển sang đời sống mới như một giai đoạn khác, chỉ với sự chuyển biến vi tế, không chấm dứt, hủy hoại thân biến dịch, cũng gọi là vô vi sinh tử. Thân biến dịch là thân của các bậc thánh đã thoát ra ngoài ba cõi.
[62] Hai hạng chúng sanh trong ba cõi (二 種三界眾生 - nhị chủng tam giới chúng sanh), chỉ hai hạng phàm và thánh, tức phàm phu và các vị chứng thánh quả nhị thừa.
[63] Đoạn này nói việc đức Phật nhìn ba cõi bằng thật trí (trí tuệ chân thật) thì thấy tướng trạng của ba cõi không giống như chúng sanh nhìn thấy; khi nhìn bằng quyền trí (trí tuệ quyền biến phương tiện) thì có thể suy lường thấy được tướng trạng của ba cõi giống như chúng sanh nhìn thấy.
[64] Nguyên tác dùng “二死 - nhị tử”, chỉ 2 cách chết là phần đoạn tử và biến dịch tử như đã giải thích ở trước.
[65] Ở đây vận dụng như lập luận trước đó: Do huân tập tham muốn mà thành tánh; do tập tánh mà khởi sinh tham muốn; không có điều nào là trước hay sau.
[66] Trí hiểu biết tương tợ: nhận biết gần giống như trí tuệ chân thật, nhưng vẫn chưa thật sự rốt ráo nên gọi là “tương tợ”.
[67] Nội phàm (內凡), ngoại phàm (外凡) là bao quát các giai vị tu tập vẫn còn xem như thuộc hàng phàm phu. Hành giả đã phát khởi trí hiểu biết tương tợ là thuộc về nội phàm; chưa được như vậy là còn ở ngoại phàm. Các tông phái cũng có sự phân định khác nhau về các giai vị thuộc nội phàm hay ngoại phàm.
[68] Tức đệ nhất nghĩa (第一義), ý nghĩa rốt ráo cùng tột.
[69] Bốn cửa vào (四門), tức 4 cách tiếp cận, bao gồm: hữu môn (有門), thấy các pháp là có; không môn (空門), thấy các pháp là không; diệc hữu diệc không môn (亦有亦空門), thấy các pháp vừa có vừa không; và phi hữu phi không môn (非有非空門), thấy các pháp chẳng phải có chẳng phải không. Trong tông Thiên Thai, mỗi giáo pháp Tạng, Thông, Biệt, Viên đều có đủ 4 cửa vào này.
[70] Kinh Duy-ma-cật, tức Duy-ma-cật sở thuyết kinh (維摩詰所說經), phẩm 9, Nhập bất nhị pháp môn (入不二法門品), từ Bồ Tát Pháp Tự Tại, Bồ Tát Đức Thủ, Bồ Tát Bất Huyễn… cho đến Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi là 32 vị Bồ Tát, đều lần lượt nói ra cách hiểu của mỗi người về việc thể nhập pháp môn bất nhị. (ĐCT, T14, 475, tr.550b, d.28 - tr.551c, d.24)
[71] Hai loại Niết-bàn: tức hữu dư Niết-bàn và vô dư Niết-bàn, đều chưa phải Niết-bàn rốt ráo của chư Phật.
[72] Kinh Tịnh Danh tức kinh Duy-ma-cật.
[73] Hai câu này giải thích theo tiến trình tu tập. Khi hành giả dứt trừ mê hoặc (diệt hoặc) dẫn đến giải thoát, đó là tiến trình dứt trừ vô thường. Khi hành giả đạt đến sự giải thoát, sự mê hoặc sẽ diệt mất, đó chính là trạng thái tịch diệt.
[74] Sáng tối không trừ bỏ nhau: khi có sáng, tuy không thấy tối nhưng không phải là tối đã mất đi, ngược lại cũng vậy. Cho nên, sáng và tối vẫn luôn tồn tại, chỉ là thay nhau hiển lộ. Ở đây nêu việc này để so sánh nói về trí tuệ và phiền não.
[75] Lập luận ở đây dựa trên mặt bản thể, nếu là khi đã đạt ngộ thì không cần phá trừ phiền não nữa; nếu là chưa đạt ngộ thì làm sao có trí tuệ để phá trừ phiền não; cho nên trong cả hai trường hợp đều không hợp lý. Từ đó thấy rằng trí tuệ và phiền não là sự biểu hiện khác nhau của cùng một bản thể, như sáng vào tối, không hề có sự loại trừ nhau.
[76] Nguyên tác dùng “二善 - nhị thiện” chỉ 2 loại pháp lành là các pháp lành chưa sinh khởi và các pháp lành đã sinh khởi.
[77] Nguyên tác dùng “二惡 - nhị ác”, chỉ 2 loại pháp xấu ác là pháp xấu ác đã sinh khởi và pháp xấu ác chưa sinh khởi.
[78] Kiến đế (見諦): tức giai đoạn tu tập thành tựu thấy rõ được ý nghĩa 4 chân đế.
[79] Tức chỉ pháp thân, báo thân và ứng thân Phật.
[80] Ở đây Văn Cú dẫn theo ý trong kinh Duy-ma-cật, phẩm Bồ Tát, Trưởng giả Duy-ma-cật nói với Bồ Tát Di-lặc: “一切眾生皆如也,一切法亦如也,眾聖賢亦如也,至於彌勒亦如也。” - Nhất thiết chúng sanh giai như dã, nhất thiết pháp diệc như dã, chúng thánh hiền diệc như dã, chí ư Di-lặc diệc như dã.” (Tất cả chúng sinh đều là như; tất cả các pháp cũng là như; các vị thánh hiền cũng là như; cho đến Di-lặc cũng là như.) (ĐCT, T14, 475, tr.542b, d.12-13)
[81] Ngoại đạo chấp không (空見外道 – không kiến ngoại đạo), chỉ hàng ngoại đạo theo quan điểm chấp không, bác bỏ nhân quả, cho rằng không hề có nhân duyên nghiệp báo thiện ác.
[82] Ngoại đạo khổ hạnh chấp có (有見苦行外道 – hữu kiến khổ hạnh ngoại đạo), chỉ hàng ngoại đạo tu khổ hạnh, tin chắc rằng việc khổ hạnh đó sẽ đưa đến giải thoát.
[83] Ở đây ý nói ngoại đạo tu thiền định dứt được phiền não nhưng chưa đoạn tận gốc rễ, do vậy về sau sẽ còn sinh khởi.
[84] Bản Hán văn là “phản phục phàm phu” (反復凡夫), chỉ hàng phàm phu quanh đi quẩn lại trong ba cõi vì các nghiệp đã tạo. Hạng này tuy mê muội nhưng khi được giáo hóa có thể tin vào khả năng thành Phật của chính mình.
[85] Bản Hán văn là “tiêu chủng Nhị thừa” (焦種二乘), chỉ hàng Nhị thừa hư mất hạt giống Phật, tức là mất niềm tin vào khả năng thành Phật của chính mình, chỉ mong cầu quả vị giải thoát của hàng Nhị thừa, tức là Niết-bàn Tiểu thừa.
[86] Bản Hán văn là “Viên giáo hậu tâm” (圓教後心), chỉ hàng Bồ Tát Viên giáo đã đạt đến trạng thái tâm cuối cùng trước khi thành Phật, tức quả vị Diệu giác (妙覺), hoặc xếp theo ngũ vị là thuộc về Cứu cánh vị (分證位).
[87] Ở đây dẫn thí dụ được nói trong kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 2, ĐCT, T12, 374. Trong kinh gọi là cựu y (舊醫), thầy thuốc cũ, trước đây; và khách y (客醫), thầy thuốc từ xa mới đến sau. Nội dung thí dụ này kể chuyện một vị vua tin dùng thầy thuốc (cựu y) không giỏi trị bệnh, chỉ biết dùng sữa làm thuốc chữa tất cả các bệnh. Sau đó có một lương y giỏi từ xa đến (khách y) chỉ rõ sai lầm, được vua tin theo và đuổi thầy thuốc cũ đi. Từ đó thầy thuốc mới xin vua ra lệnh cấm dân dùng sữa, chỉ sử dụng đủ các vị chua, cay, đắng, mặn... chế thành thuốc riêng cho từng loại bệnh, người dùng đều khỏi bệnh. Nhưng khi nhà vua mắc bệnh nguy kịch không thể dùng tất cả các loại thuốc, vị lương y liền khuyên vua dùng sữa và giải thích phân biệt giữa sữa tốt có thể làm thuốc khác với sữa độc hại, do nơi cách sử dụng và nguồn gốc. Thí dụ này để nói lên trí tuệ và phương tiện khéo léo trong sự tu tập giáo pháp.
[88] Tam đạt (三達) cũng tức là tam minh (三明), nhưng tam minh có thể chỉ năng lực của Bồ Tát, A-la-hán, còn tam đạt là năng lực rốt ráo không chướng ngại của chư Phật. Ngũ nhãn (五眼) là 5 thứ mắt, tức 5 khả năng nhìn thấu khác nhau, bao gồm nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn.
[89] Bản Đại Chánh tạng chép là “若十聲開” (nhược thập Thanh khai), nhầm từ chữ Thanh văn (聲聞) vì “thanh khai” không có nghĩa. (ĐCT, T34, 1718, tr.134b, d.19) Bản Càn Long chép đúng là “Thanh văn”.
[90] Văn Cú dùng “Chi Phật” (支佛), tức Bích-chi Phật (辟支佛), chỉ vị chứng quả Duyên giác.
[91] Chỉ 3 loại tánh đức chúng sanh đều sẵn có là chánh nhân Phật tánh, duyên nhân Phật tánh và liễu nhân Phật tánh.
[92] Văn Cú dùng “thập tâm số” (十心數), tức chỉ 10 tâm sở (心所) căn bản, tương ưng với tất cả các tâm, bao gồm: thụ (受), tưởng (想), tư (思), xúc (觸), dục (欲), tuệ (慧), niệm (念), tác ý (作意), thắng giải (勝解), tam-ma-địa (三摩地).
[93] Văn cú dùng “thập tín” (十信), nói đủ là thập tín tâm, chỉ 10 tâm mà Bồ Tát tu tập trong giai đoạn ở Tín vị (信位), là giai vị đầu tiên trong 52 giai vị của hàng Bồ Tát, bao gồm: 1. Tín tâm; 2. Niệm tâm; 3. Tinh tấn tâm; 4. Định tâm; 5. Tuệ tâm; 6. Giới tâm; 7. Hồi hướng tâm; 8. Hộ pháp tâm; 9. Xả tâm; 10. Nguyện tâm. Các tâm này tương quan lẫn nhau nên khi tu tập nghiêm cẩn với một tâm thì 9 tâm khác cũng được sinh khởi.
[94] Văn cú dùng ngũ phần (五分) tức chỉ Ngũ phần Pháp thân (五分法身), bao gồm: Giới thân (戒身), Định thân (定身), Tuệ thân (慧身), Giải thoát thân (解脫身) và Giải thoát tri kiến thân (解脫知見身).
[95] Văn cú chỉ nói “tam pháp” (三法), tức là chỉ ba phẩm đức của chư Phật vừa được đề cập, bao gồm Pháp thân đức, Bát-nhã đức và Giải thoát đức.
[96] Ba môn giải thoát (Tam giải thoát môn) vừa được đề cập là Không, Vô tướng, Vô tác, đều nương vào ba pháp tam-muội tương ứng để đạt được là Không tam-muội, Vô tướng tam-muội và Vô tác tam-muội.
[97] Từ đây hết quyển 9, bắt đầu quyển 10, phần thượng.
[98] Văn Cú trích dẫn là “bất cửu ưng tử” (不久應死) nhưng thật ra kinh văn nói “tử thời dĩ chí” (死時已至), tuy cũng có nghĩa tương tự như không bao lâu sẽ chết.
[99] Văn Cú dùng “四依菩薩” (Bồ Tát tứ y) để chỉ tứ tín đệ tử (四信弟子), tức bốn hạng đệ tử có niềm tin vào kinh này. Chữ y có nghĩa là nương tựa, ở đây là nương tựa vào kinh này. Cho nên sau khi Phật diệt độ thì những vị này sẽ truyền rộng giáo pháp. Trong một phần sau, Văn Cú đề cập đến tứ y và gọi là sơ y nhân, đệ nhất y nhân cho đến đệ tứ y nhân. Do đó biết là chỉ bốn hạng đệ tử.
[100] Ưu-ba-cấp-đa (優波笈多) là Tổ thứ tư, được truyền pháp từ ngài Thương-na-hoà-tu (商那和修). Ngài Thương-na-hòa-tu được truyền pháp từ ngài A-nan (阿難). Ở đây nêu việc giáo hóa từ ngài Ưu-ba-cấp-đa để chứng minh việc giáo pháp tiếp tục được lưu truyền sau khi Phật thị hiện diệt độ.
[101] Thật báo độ (實報土), cũng gọi là Chân thật báo độ (真實報土), tức cảnh giới thường trụ của Báo thân Phật.
[102] Phương tiện hữu dư độ (方便有餘土), chỉ cảnh giới tịnh độ là nơi cư trú của các vị A-la-hán, Duyên giác và Bồ Tát từ Thập địa trở xuống. Các vị này đã dứt kiến hoặc, tư hoặc nhưng chưa trừ được vô minh hoặc nên gọi là hữu dư.
Người Phật Tử Śrī Lanka Chiến Thắng Sự Cải Đạo Như Thế Nào
Tuổi thơ
THẦY TUỆ SỸ TRONG DÒNG CHẢY SINH-MỆNH CUẢ VĂN-HOÁ VIỆT NAM
Vài nét về Pháp môn Tịnh độ và hành trì Tịnh độ tại Việt Nam
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ









